
Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành Phiên họp
Trình bày Tờ trình của Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết dự án Luật nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện thể chế về chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hoá, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
Đề cập về sự cần thiết của việc sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết, Luật được Quốc hội thông qua năm 2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2008; là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hoá.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định trình bày tờ trình tại Phiên họp
Qua gần 17 năm thực hiện, các văn bản hướng dẫn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa ngày càng được nâng lên; sản phẩm, hàng hóa được kiểm soát chặt chẽ từ khâu trước khi đưa ra thị trường cho đến khâu sau khi đưa ra thị trường. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá được ban hành đầy đủ.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá 2007 phát sinh một số bất cập, hạn chế, đòi hỏi phải sửa đổi để phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy sự phát triển.
Nội dung sửa đổi, bổ sung các điều, khoản tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá nhằm để thể chế hóa thực hiện Chính sách "Đổi mới việc xác định sản phẩm, hàng hoá có khả năng gây mất an toàn (sản phẩm, hàng hóa nhóm 2) và hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa"; thể chế hóa thực hiện Chính sách "Ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa"; thể chế hóa thực hiện Chính sách "Phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế"; thể chế hóa thực hiện Chính sách "Tăng cường tính hiệu quả của hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hoá, đẩy mạnh phân công, phân cấp quản lý để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay".

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy phát biểu tại Phiên họp
Tiếp tục rà soát các nội dung cần sửa đổi
Trình bày Báo cáo thẩm tra sơ bộ, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, Thường trực Ủy ban cơ bản tán thành với phạm vi sửa đổi, bổ sung; tên gọi của Luật là phù hợp. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, cần sửa đổi toàn diện. Theo hướng này, tên gọi của Luật nên là Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa (sửa đổi); có ý kiến đề nghị đổi tên thành Luật Chất lượng và an toàn sản phẩm, hàng hóa.
Ông Lê Quang Huy đề nghị tiếp tục rà soát các nội dung cần sửa đổi, bổ sung theo 4 nhóm chính đã được Quốc hội thông qua. Đồng thời, trong quá trình quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật, nếu phạm vi sửa đổi vượt ra khỏi 4 nhóm chính sách này thì cần bổ sung đánh giá tác động chính sách.
Về việc phân loại danh mục sản phẩm hàng hóa (khoản 1 Điều 5), Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị làm rõ cơ sở để quy định các tiêu chí xác định hàng hóa Nhóm 2 (hàng hóa có nguy cơ gây mất an toàn), ngoài tiêu chí "khả năng gây mất an toàn" thì còn những tiêu chí nào trong quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa cần quản lý.
Về nguyên tắc quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cần bám sát, thể chế hóa quan điểm đổi mới theo 4 nhóm chính sách; bổ sung nguyên tắc hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa phải bảo đảm hiệu quả, rõ trách nhiệm trong phân công, phân cấp quản lý vào khoản 3 Điều 5 dự thảo Luật. Nội dung quy định về sản phẩm hàng hóa Nhóm 2 nên tách thành một điều riêng để làm rõ nội hàm, phương thức quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa thay vì bổ sung một khổ tại điểm b khoản 1 Điều 5 như dự thảo Luật, để tránh gây nhầm lẫn là quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa Nhóm 2 chỉ quản về mặt an toàn.
Về chính sách của nhà nước đối với hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, các chính sách tại Điều 6 dự thảo Luật còn chưa rõ nét, chưa cụ thể hóa đầy đủ tại các điều khoản cụ thể, dẫn đến khó áp dụng. Vì vậy, cần làm rõ nội dung nào ngân sách nhà nước đầu tư, nội dung nào nhà nước hỗ trợ, nội dung nào khuyến khích xã hội hóa…
Trong khuôn khổ Phiên họp, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tập trung đóng góp ý kiến vào các nội dung: Rà soát sự thống nhất của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa so với các luật khác; Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Quản lý sản phẩm hàng hóa...
Phát biểu tại Phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Trần Than Mẫn lưu ý Ban soạn thảo dự án Luật cần quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, cơ quan trong quản lý chất lượng sản phẩm hàng hóa dựa trên tiêu chuẩn kỹ thuật, đảm bảo quyền lợi của các bên để không bị chồng với các luật chuyên ngành như Luật An toàn thực phẩm, Luật Công nghiệp công nghệ số...
Chủ tịch Quốc hội cũng lưu ý Chính phủ chú trọng đến công tác phân loại, quản lý cũng như kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng hóa ở trong nước và hàng hóa từ nước ngoài xuất khẩu vào Việt Nam, đặc biệt là phòng chống việc một số nước lấy nhãn mác hàng hóa Việt Nam để mang đi nước khác tiêu thụ, nhập lậu hàng hóa Việt Nam để xuất khẩu đi nước khác... Việc đảm bảo chất lượng hàng hóa tốt sẽ tạo được niềm tin vững chắc cho người dân ở trong nước, khuyến khích “Người Việt dùng hàng Việt”; đồng thời bảo vệ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu hàng hóa ra nước ngoài góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đạt mục tiêu hai con số.
Phát biểu kết luận Phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Chỉ thị 38 của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn đo lường chất lượng quốc gia đến năm 2030 và những năm tiếp theo.
Đồng thời, tiếp tục rà soát phạm vi sửa đổi để xử lý tốt nhất các bất cập hiện nay. Tiếp tục đánh giá đầy đủ tác động của việc thực hiện cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên để thể chế hóa tối đa các cam kết quốc tế, rà soát kỹ sự cần thiết, phù hợp, đảm bảo tính thống nhất giữa các luật và luật hiện hành.
Nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý các ý kiến của các cơ quan, đặc biệt về phân loại hàng hóa giữa các nhóm.
Vũ Phong