
Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn trả lời phỏng vấn báo chí nhân kỷ niệm 80 năm thành lập ngành ngoại giao
- Trong suốt 80 năm trưởng thành và phát triển, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự dìu dắt trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, ngành ngoại giao Việt Nam đã có một lịch sử rất đỗi vẻ vang, tự hào. Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, Phó Thủ tướng đánh giá thế nào về vai trò và những dấu mốc nổi bật, những đóng góp quan trọng của ngành Ngoại giao đối với công cuộc đấu tranh, giành độc lập tự do và xây dựng, phát triển đất nước?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Ra đời vào tháng Tám mùa Thu lịch sử năm 1945, ngành ngoại giao hết sức vinh dự, tự hào được Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài, nhà ngoại giao kiệt xuất trực tiếp sáng lập và đặt nền móng. Trong suốt chặng đường 80 năm sau đó, ngoại giao đã có những đóng góp quan trọng, in đậm dấu ấn trong từng chặng đường lịch sử, từ giai đoạn giành và giữ vững độc lập, đến công cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc và cho đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đối mặt với “thù trong giặc ngoài” trong những ngày đầu lập nước, ngoại giao đã tiên phong đấu tranh giữ vững thành quả cách mạng, bảo toàn chính quyền nhân dân, kéo dài thời gian chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Những nước cờ ngoại giao mẫu mực của Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946, cũng như những nỗ lực không ngừng tại các Hội nghị Đà Lạt và tại Fontainebleau, đưa đất nước vào thế tối ưu nhất có thể trong hoàn cảnh ngặt nghèo của đất nước khi đó.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, ngoại giao vừa phục vụ kháng chiến, vừa tích cực đấu tranh phá vỡ thế bao vây, cô lập, vừa mở rộng quan hệ với bên ngoài và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Cùng các mặt trận quân sự và chính trị, ngoại giao Việt Nam đã phát huy những thắng lợi trên chiến trường để buộc các nước phải ngồi vào bàn đàm phán. Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris không chỉ là những mốc son ngoại giao chói lọi mà còn tạo thời cơ cho thắng lợi vĩ đại giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, kết thúc 30 năm chiến tranh gian khổ chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam.
Bước vào giai đoạn tái thiết đất nước sau chiến tranh, ngoại giao là lực lượng tiên phong trong việc từng bước phá thế bao vây, cấm vận, đưa đất nước bước ra khỏi khó khăn về kinh tế - xã hội. Đồng thời bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, khôi phục quan hệ với các nước Đông Nam Á, thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ và mở rộng quan hệ với các quốc gia khác. Với chủ trương “đa dạng hóa, đa phương hóa”, quan hệ ngoại giao ngày càng được mở rộng. Từ một nước bị bao vây, cô lập, Việt Nam nay đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước, thiết lập được mạng lưới quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 38 nước, trong đó có tất cả các nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an, các nước G7 hầu hết các nước G20, là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức quốc tế.
Bên cạnh đó, cùng với quốc phòng, an ninh, ngoại giao đã góp phần xây dựng vành đai biên giới hòa bình, hữu nghị, bảo vệ vững chắc chủ quyền, lãnh thổ và tạo dựng các cơ chế hợp tác để giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ bằng biện pháp hòa bình. Ngoại giao đa phương góp phần đưa Việt Nam từ nước bị bao vây, cô lập trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ngoại giao kinh tế và hội nhập quốc tế ngày càng trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, huy động các nguồn lực, điều kiện bên ngoài cho phát triển. Các lĩnh vực công tác người Việt Nam ở nước ngoài, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại, bảo hộ công dân tiếp tục được triển khai hiệu quả, toàn diện.
Trong suốt chặng đường 80 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngoại giao Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, không ngừng phát huy truyền thống vẻ vang, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đóng góp vào những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
- Thực tiễn triển khai nhiệm vụ trong suốt 80 năm qua, ngành ngoại giao rút ra những bài học kinh nghiệm gì? Đâu là những giá trị cốt lõi đã tạo nên bản sắc và truyền thống của nền ngoại giao Việt Nam, thưa Phó Thủ tướng?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Nền ngoại giao của Việt Nam ra đời, trưởng thành trong 30 năm kháng chiến và ngày càng lớn mạnh trong 40 năm đổi mới. Được trui rèn, thử thách trong những giai đoạn cam go nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam đã để lại cho ngoại giao Việt Nam nhiều bài học còn nguyên giá trị.
Đó là bài học về việc bảo đảm cao nhất, trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 3 năm 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ” và tư tưởng của Người được các thế hệ lãnh đạo, cán bộ ngoại giao Việt Nam thấm nhuần và thực hiện trong suốt chặng đường lịch sử 80 năm qua. Đó cũng là bài học về sự lãnh đạo thống nhất, tuyệt đối của Đảng, nhạy bén trong nhận định và nắm bắt tình hình, quyết đoán trong việc đưa ra các quyết sách. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định “điều cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạng là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải trong chiến tranh và trưởng thành”.
Đó còn là bài học về kết hợp nội lực với ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, qua đó huy động được sự ủng hộ vô cùng to lớn cả về vật chất và tinh thần của nhân loại tiến bộ ủng hộ Việt Nam. Đó cũng là các bài học về kiên định về nguyên tắc nhưng linh hoạt về sách lược theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”; bài học về tầm quan trọng của đoàn kết, đồng thuận; là sự vận dụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến), là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ, là ngoại giao tâm công giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý.
Những bài học kinh nghiệm này đã góp phần hình thành nên những giá trị cốt lõi tạo nên một nền ngoại giao mang đậm bản sắc dân tộc và con người Việt Nam. Đó là một nền ngoại giao luôn vì lợi ích quốc gia - dân tộc, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân; một nền ngoại giao bản lĩnh, kiên cường nhưng mềm mại, khôn khéo; mang đậm khí phách, bản lĩnh, trí tuệ của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đồng thời, nền ngoại giao Việt Nam cũng có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân tộc và quốc tế, vừa tiếp thu tinh hoa từ bên ngoài vừa đóng góp tích cực và có trách nhiệm vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại
- Đất nước đang bước vào kỷ nguyên phát triển mới, với mục tiêu đến năm 2045 – năm đánh dấu kỷ niệm 100 năm thành lập Nước. Cùng với quốc phòng, an ninh, ngành ngoại giao là lĩnh vực trọng yếu, thường xuyên, đóng vai trò tiên phong trong việc kiến tạo và duy trì môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ phát triển. Xin Phó Thủ tướng đánh giá về những thuận lợi, thách thức đối với ngành ngoại giao trong bối cảnh tình hình hiện nay? Ngành ngoại giao sẽ ưu tiên những nhiệm vụ trọng tâm nào để tiếp tục thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng và đất nước đã tin cậy giao phó, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Thế giới đang đứng trước thời điểm bước ngoặt, với những diễn biến khó lường, phức tạp, những chuyển động sâu rộng về chính trị, an ninh, kinh tế, khoa học, quân sự, khoa học - công nghệ. Trong nước, giai đoạn sắp tới có ý nghĩa quan trọng bản lề, nước rút trong việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu phát triển tới năm 2030, tầm nhìn đến 2045, đưa đất nước vào kỷ nguyên mới.
Sau gần 40 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Với thế và lực mới của đất nước, ngành ngoại giao Việt Nam được kỳ vọng sẽ phát huy hơn nữa vai trò của mình, đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới. Như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh “trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, ngoại giao Việt Nam phải vươn lên những tầm cao mới để hoàn thành những trọng trách vinh quang mới, xứng đáng là đội quân tiên phong, binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam”. Điều đó đòi hỏi ngoại giao phải không ngừng đổi mới, nâng tầm hơn nữa cả trong tư duy và hành động.
Thứ nhất, đối ngoại cần phát huy vai trò tiên phong, trọng yếu, thường xuyên trong tạo lập và củng cố cục diện đối ngoại thuận lợi, thực hiện ba mục tiêu của đối ngoại là an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Đặc biệt là đưa quan hệ với các nước đi vào chiều sâu, hợp tác hiệu quả, bền vững trên tất cả các mặt chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, văn hoá, giao lưu nhân dân.
Thứ hai, thông qua các hoạt động ngoại giao kinh tế, ngoại giao khoa học công nghệ, đối ngoại đóng vai trò mở đường, tranh thủ cơ hội, hóa giải thách thức, kiến tạo động lực phát triển mới cho đất nước, kết hợp hiệu quả giữa nội lực với ngoại lực. Đối ngoại cần góp phần đưa đất nước đi đúng xu thế phát triển của thời đại, nhất là các xu thế mới về kinh tế, thương mại, đầu tư, cuộc cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Thứ ba, không ngừng nâng tầm đóng góp của Việt Nam đối với hoà bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại. Thế và lực mới cho phép chúng ta có điều kiện tham gia sâu hơn, trách nhiệm hơn trên các diễn đàn đa phương và vào việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, qua đó đóng góp vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới.
Thứ tư, phát huy “sức mạnh mềm” của dân tộc, gia tăng hình ảnh và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tương xứng với tầm vóc lịch sử và văn hóa, vị thế chính trị và kinh tế của đất nước. Sức mạnh mềm của đất nước không chỉ giúp thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn giúp gắn kết Việt Nam với thế giới.
Thứ năm, xây dựng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của kỷ nguyên mới, ngang tầm khu vực và vươn tầm quốc tế.
- Vừa qua, Bộ Chính trị đã ban hành 4 Nghị quyết “trụ cột” từ thể chế, khoa học công nghệ đến kinh tế tư nhân và hội nhập quốc tế. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh thế nào về nhiệm vụ và vai trò của ngoại giao trong việc bảo đảm triển khai 04 Nghị quyết nhằm tạo sự kết gắn giữa “nội lực vững – ngoại lực mạnh” cho phát triển đất nước? Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng cho biết, ngành Ngoại giao đã có những sự chuẩn bị gì để tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết 59?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Nhìn lại lịch sử cách mạng của đất nước, chúng ta đều nhận thấy sự phát triển của đất nước luôn gắn liền với những xu thế, biến chuyển của thời đại. Chúng ta đang sống trong giai đoạn thế giới có những thay đổi mang tính thời đại. Đây cũng là cũng là thời kỳ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam để bước vào kỷ nguyên phát triển hùng mạnh của dân tộc, đạt mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước.
Trong bối cảnh đó, “bộ tứ trụ cột” nghị quyết là động lực để đưa Việt Nam “cất cánh” trong giai đoạn phát triển mới. Các Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Nghị quyết 66 về đổi mới công tác xây dựng và thực thi pháp luật, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết 59 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới là những quyết sách chiến lược góp phần kiến tạo cơ hội, điều kiện thuận lội cho mục tiêu phát triển mạnh mẽ, bứt phá của đất nước. Trong đó, Nghị quyết số 59 đánh dấu bước ngoặt về đổi mới tư duy, cách tiếp cận trong quá trình hội nhập của đất nước, theo đó hội nhập quốc tế vừa được xác định là “trọng yếu, thường xuyên” vừa là “động lực quan trọng” đưa đất nước vào kỷ nguyên mới. Hội nhập quốc tế giờ đây không chỉ dừng lại ở việc định vị Việt Nam là quốc gia “đến sau”, “tham gia”, “gia nhập” mà xác định vị thế của quốc gia “xây dựng”, “định hình” và “dẫn dắt” các khuôn khổ hợp tác phù hợp với điều kiện và năng lực mới của đất nước .
- Công tác ngoại giao kinh tế là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Ngoại giao, và ngày càng có vai trò quan trọng trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động như hiện nay. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá những kết quả, thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian qua và cho biết, ngành Ngoại giao sẽ triển khai nhiệm vụ ngoại giao kinh tế như thế nào để góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong thời gian tới?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Ngoại giao kinh tế không chỉ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà còn trở thành động lực quan trọng trong công cuộc phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng của Việt Nam. Thời gian qua, ngoại giao kinh tế được triển khai đồng bộ, gắn kết chặt chẽ với đối ngoại chính trị, quốc phòng, văn hóa, tạo nên một mặt trận thống nhất, phục vụ hiệu quả cho công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Một kết quả nổi bật là đến nay chúng ta đã thiết lập quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 230 quốc gia, vùng lãnh thổ; ký kết và triển khai 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có nhiều FTA thế hệ mới và đang thúc đẩy đàm phán với các đối tác khác. Trong thành tựu đáng tự hào của việc Việt Nam vươn lên vào nhóm 32 quốc gia hàng đầu thế giới về quy mô GDP, tốp 20 quốc gia có quy mô thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất, có đóng góp tích cực của công tác ngoại giao kinh tế.
Cùng với đó, việc tích cực triển khai Chỉ thị 15 của Ban Bí thư về ngoại giao kinh tế đã góp phần biến Việt Nam trở thành mắt xích quan trọng trong thị trường khu vực và thế giới; mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực mới và tham gia sâu hơn vào các chuỗi cung ứng và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong bối cảnh thách thức và cơ hội đan xen, bám sát mục tiêu phát triển của đất nước, nhất là mục tiêu tăng trưởng 2 con số và 2 mục tiêu 100 năm, trong thời gian tới, ngoại giao kinh tế sẽ tập trung vào nhiệm vụ ưu tiên sau:
Một là, khai thác tối đa lợi ích của các hiệp định thương mại, đầu tư hiện có, nhất là những thị trường, lĩnh vực còn chưa được khai thác; khai mở các nguồn đầu tư, tài chính mới, nhất là những nguồn lực từ các doanh nghiệp, các quỹ đầu tư lớn; cụ thể hóa các khuôn khổ quan hệ vừa được nâng cấp thành các chương trình, dự án hợp tác kinh tế thiết thực, hiệu quả.
Hai là, tích cực góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chú trọng làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng), đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới (khoa học công nghệ, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức).
Ba là, kịp thời nhận diện và tranh thủ cơ hội từ những xu hướng mới đang định hình như các xu hướng chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng; thiết lập sự hợp tác sâu rộng với các trung tâm đổi mới sáng tạo của thế giới, bao gồm cả các quốc gia và doanh nghiệp, trong các lĩnh vực mang tính đột phá như công nghệ cao, bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, lượng tử.
Cuối cùng, ngoại giao kinh tế sẽ tiếp tục đồng hành với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, kiến tạo đòn bẩy, kết nối, thu hút các dự án và chương trình hợp tác mới.
- Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng chia sẻ về vai trò ngày càng gia tăng của công tác Ngoại giao văn hóa trong tổng thể công tác đối ngoại, ngoại giao và cho biết, đâu là những thành tựu của công tác ngoại giao văn hóa trong thời gian qua, đâu là phương hướng để tiếp tục đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, ngoại giao văn hóa là “nền tảng tinh thần” tạo nên bản sắc của nền ngoại giao Việt Nam. Nếu ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế tập trung vào củng cố môi trường hòa bình, hợp tác và tạo động lực phát triển, thì ngoại giao văn hóa đóng vai trò bồi đắp nền tảng sức mạnh mềm, lan tỏa hình ảnh đất nước tới bạn bè quốc tế, củng cố niềm tin giữa Việt Nam và bạn bè trên khắp thế giới.
Công tác ngoại giao văn hóa thời gian đã được đẩy mạnh với nhiều hoạt động phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức, chú trọng chiều sâu và chất lượng, đồng thời thể hiện sự đổi mới sáng tạo trong ý tưởng cũng như cách thức thực hiện. Những thành tựu nổi bật có thể kể đến như việc lan tỏa các giá trị, tư tưởng, quan điểm nhân sinh quan, thế giới tiến bộ và cao đẹp của dân tộc Việt Nam thông qua hình ảnh, giá trị tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các danh nhân được UNESCO vinh danh.
Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa đã phát huy hiệu quả trong việc quảng bá hình ảnh địa phương, xúc tiến thương mại, thu hút đầu tư và đẩy mạnh “kinh tế di sản” – một định hướng phát triển mới hài hòa và bền vững. Từ năm 2021 đến nay, nhiều chương trình ngoại giao văn hoá như “Tuần/Ngày Việt Nam ở nước ngoài”, “Ngày tìm hiểu về Việt Nam” đã được tổ chức với quy mô lớn tại nhiều quốc gia, không chỉ là những sự kiện văn hóa - kinh tế - chính trị mà còn góp phần thúc đẩy du lịch, quảng bá thương hiệu địa phương/doanh nghiệp. Có thể nói, ngoại giao văn hóa đã góp phần hình thành nên chuỗi giá trị văn hóa - kinh tế, mở rộng không gian phát triển cho doanh nghiệp và địa phương.
Một đóng góp quan trọng khác là ngoại giao văn hóa góp phần nâng tầm ngoại giao đa phương, qua đó nâng cao vị thế đất nước. Vai trò của Việt Nam trong các cơ chế điều hành trọng yếu như Ủy ban Di sản thế giới, Hội đồng Chấp hành, Ủy ban liên chính phủ về Công ước 2003 và Công ước 2005 ngày càng được củng cố và nâng cao, tạo nên “hiện tượng Việt Nam” tại UNESCO.
Trong thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh công tác ngoại giao văn hóa, Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai hiệu quả Chiến lược Ngoại giao văn hóa giai đoạn 2021-2030. Đồng thời, sẽ chú trọng đưa văn hóa trở thành nền tảng, động lực mới trong phát triển, gắn kết chặt chẽ với ngoại giao chính trị, kinh tế, quốc phòng – an ninh; khuyến khích sự tham gia chủ động của địa phương, người dân, doanh nghiệp. Ngoại giao văn hóa sẽ tiếp tục được triển khai theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, sáng tạo và thích ứng với những xu thế mới của thời đại phục vụ thiết thực cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
- Thưa Phó Thủ tướng, trong 80 năm qua, trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn là một nguồn lực đặc biệt, tuy xa mà luôn rất gần, có vai trò và đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước. Thời gian qua, Việt Nam đã có những cơ chế kết nối, mời gọi để thu hút và phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài. Xin Phó Thủ tướng, Bộ trưởng cho biết, trong thời gian tới, ngành ngoại giao sẽ tiếp tục có những bước đi cụ thể và những đổi mới nào để tiếp tục thu hút đội ngũ trí thức, chuyên gia quay về đóng góp cho đất nước trong giai đoạn phát triển quan trọng này, đặc biệt là đối với trí thức trẻ thế hệ thứ hai, thứ ba?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) là bộ phận không tách rời của dân tộc, đóng góp quan trọng vào sự phát triển đất nước với khoảng 6 triệu người Việt Nam đang sinh sống, học tập và làm việc tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của kiều bào, trong những năm vừa qua, công tác NVONN được triển khai toàn diện, qua đó thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng và Nhà nước, góp phần củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy nguồn lực của kiều bào cho xây dựng và phát triển đất nước. Cùng với đó, Đảng, Nhà nước cũng đã có những cơ chế kết nối, mời gọi để thu hút và phát huy tiềm năng của kiều bào ở nước ngoài, nhất là đội ngũ trí thức. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia đã đưa ra những chủ trương đột phá nhằm thu hút, trọng dụng các chuyên gia, nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài về nước làm việc, sinh sống. Quốc hội cũng ban hành nhiều luật mới, như Luật Quốc tịch sửa đổi, trong đó tháo gỡ vướng mắc về nhập/trở lại quốc tịch Việt Nam đồng thời giữ quốc tịch nước ngoài; Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cá nhân, tổ chức nghiên cứu khoa học.
Gần đây nhất, Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã đề nghị khẩn trương đề xuất, kiến nghị những chính sách đãi ngộ đặc biệt để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có thể tham gia, đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Hơn bao giờ hết, việc phát huy sức mạnh của cộng đồng người Việt ở nước ngoài càng trở nên quan trọng, là một trong những động lực lớn đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới của dân tộc.
Trên tinh thần đó, Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan tiếp tục tạo khuôn khổ, chính sách pháp lý thuận lợi để các chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài yên tâm gắn bó và đóng góp cho đất nước. Cùng với đó, xây dựng môi trường làm việc thông thoáng, hấp dẫn với kiều bào, cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại, chế độ đãi ngộ phù hợp, không phân biệt khu vực công-tư để phát huy tối đa khả năng nghiên cứu, sáng tạo của kiều bào. Đồng thời, các thủ tục hành chính cũng sẽ được đơn giản hóa để kiều bào dễ dàng về nước sinh sống, đầu tư và kinh doanh; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động kết nối cộng đồng; bồi dưỡng, hỗ trợ phát triển nguồn lực trí thức kiều bào, trong đó tập trung vào thế hệ trẻ; cầu thị lắng nghe, ủng hộ và xem xét, ứng dụng vào thực tiễn các sáng kiến và đề xuất từ cộng đồng.
- Phó Thủ tướng có thể chia sẻ một vài câu chuyện, phát biểu cụ thể của các nhà lãnh đạo thế giới đánh giá về vai trò, vị thế Việt Nam? Phó Thủ tướng có thông điệp chính sách nào gửi tới bạn bè quốc tế nhân dịp này không?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Có thể nói câu chuyện thành công của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho cộng đồng quốc tế.
Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, Việt Nam được xem là một biểu tượng của đấu tranh cho độc lập, tự do, là hiện thân của một đất nước anh dũng, kiên cường. Cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam được cho là “lương tri” của thời đại, đưa một vùng đất chưa có tên trên bản đồ thế giới trở thành biểu tượng hòa bình, hữu nghị. Ngày nay, Việt Nam được đánh giá cao từ góc độ một quốc gia đang vươn lên mạnh mẽ, trở thành một hình mẫu thành công trong phát triển kinh tế - xã hội, có vai trò, tiếng nói ngày càng tăng trên trường quốc tế.
Tôi nhớ câu nói của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc António Guterres trong nhiều cuộc tiếp xúc đã nhắc đến Việt Nam như một “hình mẫu của hòa bình và phát triển bền vững”. Hay Tổng Thư ký ASEAN Kao Kim Hourn đã nhấn mạnh Việt Nam là thành viên quan trọng, có đóng góp then chốt trong củng cố đoàn kết và nâng cao vị thế, năng lực của ASEAN trong đối thoại và hợp tác với các đối tác toàn cầu nhân dịp 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN. Nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia và tổ chức quốc tế khác, qua những lời nói, hành động của mình cũng đánh giá cao vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, cho rằng Việt Nam là một đối tác tin cậy, một thành viên tích cực và có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
Trải qua 8 thập kỷ, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, ngoại giao Việt Nam đã không ngừng trưởng thành mạnh mẽ. Ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương, tôn trọng luật pháp quốc tế, tích cực đóng góp cho môi trường hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên toàn thế giới. Và chúng tôi rất mong muốn các nước, các đối tác, bạn bè quốc tế sẽ tiếp tục ủng hộ, song hành cùng Việt Nam trong kỷ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.
- Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đánh giá thế nào về những lớp cán bộ ngoại giao trẻ ngày nay? Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngành ngoại giao Việt Nam, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng có thông điệp gì gửi gắm tới đội ngũ những người làm công tác ngoại giao, trong đó có các cán bộ ngoại giao trẻ, những nhà ngoại giao thế hệ kế cận?
Phó Thủ tướng Bùi Thanh Sơn: Bác Hồ đã nói “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”. Thấm nhuần lời dạy của Bác, ngành ngoại giao luôn chú trọng công tác xây dựng ngành theo hướng toàn diên, hiện đại, chuyên nghiệp, trong đó có việc xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên.
Các cán bộ ngoại giao trẻ ngày nay là những cán bộ có nền tảng trình độ chuyên môn và ngoại ngữ tốt, năng động, nhiệt huyết với khả năng thích ứng cao, có tinh thần học hỏi, cầu tiến và am hiểu khoa học - công nghệ. Điều này đã và đang đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng trong các mặt của công tác đối ngoại. Đây có thể nói là lực lượng kế cận quan trọng trong sứ mệnh quan trọng của đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, phục vụ đất nước và nhân dân. Với ý nghĩa đó, các cán bộ trẻ luôn được tạo điều kiện tự rèn luyện, phát triển bản thân, cả về đạo đức, chuyên môn, lẫn kỹ năng cần thiết để phục vụ cho những yêu cầu ngày càng cao của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.
Trong các buổi đối thoại với các cán bộ ngoại giao trẻ, tôi luôn nhấn mạnh rằng ngoại giao là một nghề có nhiều khó khăn, thử thách và cũng rất vinh quang. Sứ mệnh của ngoại giao là bảo vệ, đấu tranh, phát huy cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc. Để gánh vác được sứ mệnh ấy, chúng tôi khuyến khích cán bộ trẻ luôn giữ trong mình “ngọn lửa đam mê”, rèn luyện tinh thần vượt khó, ý thức tự học tập và tự rèn luyện. Trong quá trình xây dựng và phát triển ngành ngoại giao, chúng tôi luôn tâm niệm ngoại giao phải “phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân”, luôn có ý thức về “đạo đức công vụ”, gương mẫu, dấn thân.
Đất nước chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới, tôi tin tưởng rằng các cán bộ ngoại giao trẻ sẽ luôn phát huy phẩm chất cao đẹp của các thế hệ ngoại giao đi trước, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng và vững vàng về tư tưởng chính trị, tinh thông về nghiệp vụ, chuyên môn để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó cho ngành ngoại giao.
- Trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng, Bộ trưởng!