Xung phong lên đường nhập ngũ
Những ngày tháng Tư lịch sử, chúng tôi may mắn có dịp ghé về thăm gia đình người thương binh Trịnh Quang Thê (SN 1950), trú tại xóm Thanh Lương, xã Phù Lưu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Ngôi nhà bình dị của gia đình ông Thê lại rộn rã tiếng nói cười hội ngộ của những người lính già. Bên ấm nước chè xanh, ký ức về những trận đánh không thể nào quên lại được tái hiện. Chiến tranh đã đi qua, nhưng mảnh bom đạn vẫn còn sót lại trong cơ thể người thương binh ấy.
Trong miền ký ức ấy, câu chuyện về giây phút đầu tiên đặt chân vào Dinh Độc Lập luôn được ông Thê kể lại trong niềm xúc động, tự hào. Dù đã 50 năm trôi qua nhưng với ông, đó là kỷ niệm đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mình.
"Tháng 3/1971, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, tôi tạm gác lại những ước mơ, giã từ gia đình, bạn bè và thầy cô để lên đường đi hỏa tuyến tại Lào. Đi hỏa tuyến 1 năm trở về, tôi đã xung phong xin được lên đường nhập ngũ ", ông Trịnh Quang Thê bắt đầu câu chuyện về đời lính của mình.
Sau thời gian huấn luyện tại Trung đoàn 22, thuộc Quân khu 4 đóng tại huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tháng 12/1972, ông cùng nhiều chiến sĩ khác được bổ sung vào Trung đoàn 270, Sư đoàn 341 (Quân khu 4) và tiếp tục đợt huấn luyện mới tại Quảng Bình. Đến tháng 2/1975, đơn vị được lệnh hành quân vào miền Đông Nam Bộ và sáp nhập vào Quân đoàn 4 cùng với Sư đoàn 7, Sư đoàn 9.
Ngày 3/2/1975, mãi là mốc son lịch sử đối với Trung đoàn 270. Khi ấy, tại Lệ Thủy, Quảng Bình, Bộ Tư lệnh Sư đoàn làm lễ xuất quân tham gia chiến đấu ở chiến trường Miền Đông Nam bộ với khí thế "đi lâu, đi sâu, đi xa, đi đến ngày toàn thắng".
Sau gần nửa tháng hành quân, ngày 31/3/1975, Trung đoàn của ông Thê nhận lệnh, bí mật cơ động lực lượng đánh trận đầu tiên tại Núi Tràn, tiêu diệt gọn 2 Đại đội và làm thiệt hại nặng 2 Đại đội khác, đập tan cuộc hành quân lấn chiếm của 2 Tiểu đoàn Ngụy, tạo niềm tin và khí thế tiến công cho cán bộ, chiến sĩ dũng mãnh xông lên, cùng với các đơn vị bạn giải phóng Long Khánh, Dầu Giây, mở toang cánh cửa thép Xuân Lộc.

Ông Trịnh Quang Thê cùng người vợ Phan Thị Liên.
Đến ngày 21/4/1975, sau khi giải phóng thị xã Xuân Lộc, Quân đoàn 4 lại tiếp tục các trận đánh giải phóng vùng Trảng Bom, Hố Nai, Biên Hòa (Đồng Nai). Sau bao ngày chờ đợi, chiều 30/4 (khoảng 15h), Quân đoàn 4 của ông Minh chính thức tiến vào Dinh Độc Lập. Bước chân trên đường phố Sài Gòn, trong rợp trời cờ hoa, trong dòng người hân hoan chào đón bộ đội giải phóng quân và hô vang khẩu hiệu, ông Thê cùng đồng đội vẫn chưa thôi ngỡ ngàng, chỉ biết ôm chầm nhau trong rưng rưng nước mắt.
"Khoảng hơn 11h, ngày 30/4/1975, tôi cùng đồng đội nghe tin quân ta đã tiến được vào Dinh Độc lập, mọi người vô cùng phấn khởi, hò reo. Lúc này người qua lại trên cầu đã đông như mắc cửi, quân ta từ phía Đông Bắc tiếp tục hành quân vào, dân tị nạn từ hướng Sài Gòn chạy ra", ông Trịnh Quang Thê nhớ lại.
Song tất cả không làm lu mờ được không khí hân hoan của chiến sĩ, đồng bào, người dân đi kiếm lá cờ đỏ sao vàng hoặc tất cả những mảnh vải, tấm giấy có màu đỏ buộc lên xe, cầm trên tay chạy ra đường mừng chiến thắng. Trên gương mặt mọi người, ai ai cũng một nụ cười hạnh phúc rạng rỡ, nhiều người xa lạ vẫn tay bắt mặt mừng, ôm chặt lấy nhau như đã quen thân cùng chung niềm vui giải phóng.
Ông nhớ lại, thời điểm đó đi đến đâu, cờ Giải phóng lập tức treo lên ở đó. Hàng ngàn lá cờ Giải phóng dường như đã được nhân dân thành phố chuẩn bị từ trước đó, tung bay trên phố phường trong niềm vui sướng của đồng bào.
"Mỗi lần nhắc lại chuyện xưa, những âm vang ấy, khí thế ấy đã tạo nên sức mạnh, cổ vũ rất lớn đối với những người lính bộ đội Cụ Hồ. Khi được vào Dinh Độc Lập, chứng kiến lá cờ giải phóng tung bay, chúng tôi tự hào, xúc động lắm. Anh em ai nấy đều khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc. Chúng tôi thật sự may mắn hơn nhiều đồng đội khi được chứng kiến giờ phút lịch sử của dân tộc. Được sống để trở về là niềm may mắn với tôi, chỉ tiếc những người đồng đội của mình đã ngã xuống vì Tổ quốc", ông Thê xúc động chia sẻ.
Trở về là niềm may mắn
Tiếp quản Sài Gòn, quận 3 để làm công tác quân quản. Sau khi hòa bình giải phóng, năm 1976 ông được điều sang chiến dịch tại Campuchia. Tháng 10 /1978, trong một trận đánh với quân địch, ông Trịnh Quang Thê bị thương nặng và được cho về quê để chữa bệnh và sinh sống.
Trở về quê hương, ông Thê bị thương khắp cơ thể với chi chít những vết sẹo. Trong đó, một mảnh bom đạn vẫn còn sót lại trong vùng lưng, mỗi lần trái gió trở trời làm ông đau buốt. Nhưng ông bảo, đó vẫn là may mắn hơn so với những người đồng đội đã ngã xuống trong cuộc chiến.

Xe tăng quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập trưa 30/4/1975.
9 năm trong quân ngũ và đến nay ký ức của người cựu binh Trịnh Quang Thê vẫn vô cùng sống động. Ngoài các danh hiệu kháng chiến, là những ký ức khó quên của biết bao trận đánh oai hùng. Đặc biệt, ông luôn cảm thấy may mắn và tự hào khi được cùng đồng đội chiến đấu, giành thắng lợi và được chứng kiến, được sống trong những giây phút đầu tiên của ngày thống nhất non sông.
Trở lại với đời thường, người cựu binh từng một thời xông pha lửa đạn tiếp tục phát huy tinh thần xung kích trên mặt trận chống đói nghèo. Từ sự chịu thương chịu khó, sự dạy dỗ nghiêm khắc của người cha, các con ông nay đã trưởng thành.
Phát huy tinh thần trách nhiệm, gương mẫu đi đầu trong các phong trào, những năm qua, ông Thê luôn làm những công việc có ích cho địa phương mình. Chiến tranh trở về, ông làm công tác quản lý tại trạm bơm nước, trạm điện của địa phương. Gia đình ông luôn gương mẫu đi đầu trong phong trào chung sức xây dựng nông thôn mới, chăm sóc các tuyến đường tự quản, góp phần cùng với các lực lượng bảo vệ tình hình trật tự, trị an trên địa bàn.
Dù 50 năm đã qua, khi ôn lại những ngày tháng chiến đấu oanh liệt, người cựu binh Trịnh Quang Thê vẫn xúc động rơi nước mắt khi thương nhớ đồng đội đã nằm xuống. Vì Tổ quốc, họ đã hy sinh để miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, phát triển như ngày hôm nay. Đại thắng mùa Xuân 1975 và nhưng trận đánh oanh liệt sẽ mãi mãi in sâu trong ký ức của ông và đồng đội, như một minh chứng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân đội và nhân dân Việt Nam.
Thiện Quyền