Ngoài 12 tháng từ khi bị kỷ luật, cán bộ vi phạm không được coi là tái phạm

Theo dự thảo Nghị định xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức thì, ngoài thời hạn 12 tháng (kể từ khi có quyết định kỷ luật) thì hành vi vi phạm đó được coi là vi phạm lần đầu và được tính là tình tiết tăng nặng.

Trên cơ sở tiếp thu ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ đã có báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực về việc xây dựng dự thảo Nghị định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức viên chức.

Theo Bộ Nội vụ, thực tiễn trong quá trình thực hiện các quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức đã phát sinh một số vướng mắc cần sửa đổi để bảo đảm thống nhất như nguyên tắc xử lý, áp dụng hình thức kỷ luật, trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật,...

Xuất phát từ các căn cứ nêu trên, để kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước thì việc ban hành Nghị định mới thay thế là cần thiết.

Ngoài 12 tháng từ khi bị kỷ luật, cán bộ vi phạm không được coi là tái phạm- Ảnh 1.

Ảnh minh họa.

Theo dự thảo Nghị định, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng (Điều 1), điều chỉnh và áp dụng đối với: (a) Cán bộ, công chức theo quy định tại Điều 1 Luật Cán bộ, công chức năm 2025, (b) cán bộ, công chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu.

Về nguyên tắc xử lý kỷ luật (Điều 2) đã sửa đổi quy định về tái phạm. Theo đó, cán bộ, công chức có hành vi vi phạm lần đầu đã bị xử lý kỷ luật mà trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày quyết định xử lý kỷ luật có hiệu lực thi hành mà tiếp tục vi phạm hành vi đã bị kỷ luật thì bị coi là tái phạm.

Ngoài thời hạn 12 tháng thì hành vi vi phạm đó được coi là vi phạm lần đầu nhưng được tính là tình tiết tăng nặng khi xem xét xử lý kỷ luật (để bảo đảm thống nhất với Quy định số 69-QĐ/TW cũng như thống nhất với khoản 9 Điều này.

Về các trường hợp chưa xem xét xử lý kỷ luật (Điều 3) được sửa đổi để rõ hơn hành vi của cán bộ, công chức là nam giới (trong trường hợp vợ chết hoặc vợ không thể nuôi con vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự) đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người có hành vi vi phạm có văn bản đề nghị xem xét xử lý kỷ luật.

Về các trường hợp được giảm nhẹ hoặc miễn trách nhiệm kỷ luật (Điều 4), dự thảo đã chia thành 2 trường hợp để thống nhất theo Luật Cán bộ, công chức năm 2025, Nghị quyết số 138/NQ-CP ngày 16/5/2025 của Chính phủ và quy định tại Quy định số 69-QĐ/TW, Quy định 296-QĐ/TW ngày 30/5/2025 của Bộ Chính trị.

Vụ ngai vua triều Nguyễn bị xâm hại ở Huế: Kỷ luật nhiều cán bộ, sa thải 2 bảo vệPhó Thủ tướng: Xử lý nghiêm cán bộ tham nhũng, tiêu cực trong công tác chống hàng giả

Cụ thể, điểm a, trường hợp vi phạm có một hoặc một số tình tiết sau thì được xem xét, giảm nhẹ mức kỷ luật: Chủ động báo cáo vi phạm, tự giác nhận trách nhiệm cá nhân về khuyết điểm, vi phạm và tự nhận hình thức kỷ luật tương xứng với nội dung, tính chất, mức độ vi phạm trước và trong quá trình kiểm tra, giám sát; Chủ động cung cấp thông tin, hồ sơ, tài liệu, phản ánh đầy đủ, trung thực về những người cùng vi phạm;

Chủ động chấm dứt hành vi vi phạm, tích cực tham gia ngăn chặn hành vi vi phạm; tự giác nộp tài sản tham nhũng, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do mình gây ra; Thực hiện đề xuất về đổi mới, sáng tạo được cơ quan có thẩm quyền cho phép và được cấp có thẩm quyền xác định đã thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung nhưng có thiệt hại xảy ra.

Điểm b, trường hợp vi phạm có một hoặc một số tình tiết sau thì được xem xét, miễn trách nhiệm kỷ luật: Được cơ quan có thẩm quyền xác nhận tình trạng mất năng lực hành vi dân sự khi có hành vi vi phạm; Phải chấp hành quyết định của cấp trên theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Luật Cán bộ, công chức năm 2025.

Được cấp có thẩm quyền xác nhận vi phạm trong tình thế cấp thiết, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự khi thi hành công vụ.

Cuối cùng, đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, không vụ lợi trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhưng vẫn gây ra thiệt hại vì lý do khách quan; Có hành vi vi phạm đến mức bị xử lý kỷ luật nhưng đã qua đời; trừ trường hợp quy định của cấp có thẩm quyền.

Về các hành vi bị xử lý kỷ luật (Điều 6) cũng sửa đổi, bổ sung quy định: Cán bộ, công chức có hành vi vi phạm các quy định về nghĩa vụ của cán bộ, công chức; những việc cán bộ, công chức không được làm; vi phạm đạo đức công vụ, văn hóa giao tiếp ở công sở, giao tiếp với nhân dân; vi phạm nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong khi thi hành công vụ.

Cán bộ, công chức bị xử lý kỷ luật về đảng thì bị xem xét xử lý kỷ luật hành chính (khoản 1), để phù hợp với Luật Cán bộ công chức năm 2025 và cụ thể hơn về trường hợp là đảng viên bị xử lý kỷ luật về đảng.

Về thành phần Hội đồng kỷ luật (Điều 21), dự thảo Nghị định cũng giảm số lượng từ 5 xuống 3 thành viên. Theo lý giải, việc này để phù hợp với việc không lập tổ chức Công đoàn trong các cơ quan hành chính theo Kết luận số 157-KL/TW ngày 25/5/2025 của Bộ Chính trị; quy định trách nhiệm cử người tham gia cuộc họp Hội đồng kỷ luật và các trường hợp thay thế,….