ĐBQH: Chính sách nghỉ thai sản cần hướng đến sự linh hoạt hơn

Về quy định tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ 2, ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga chỉ ra một số rào cản đối với lao động nữ và nên có quy định mở, có sự phân biệt giữa các nhóm ngành nghề, khu vực.

Chiều 10/11, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Dân số.

Phát triển hệ thống nhà trẻ

Tham gia góp ý kiến, ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (đoàn Tp.Hải Phòng) bày tỏ sự nhất trí với việc xây dựng và ban hành Luật Dân số.

Về quy định tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ 2, điểm a khoản 1 Điều 13 Dự thảo quy định "Tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ 2: Phụ nữ được nghỉ thêm 1 tháng". Đây là quy định sẽ nhận được sự đồng tình của khá nhiều những người đã, đang và sẽ làm mẹ. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng cần được cân nhắc kỹ lưỡng.

Theo đại biểu, khi kéo dài thời gian nghỉ thai sản đối với lao động nữ, doanh nghiệp sẽ có xu hướng e ngại tuyển hoặc bố trí lao động nữ vào các vị trí quan trọng do lo ngại gián đoạn công việc và chi phí phát sinh.

Quy định này có thể vô tình trở thành rào cản đối với lao động nữ và làm gia tăng nguy cơ phân biệt đối xử về giới trong tuyển dụng và sử dụng lao động nữ.

ĐBQH: Chính sách nghỉ thai sản cần hướng đến sự linh hoạt hơn - Ảnh 1.

ĐBQH Nguyễn Thị Việt Nga (Ảnh: Media Quốc hội).

Bên cạnh đó, bà Nga phân tích thêm, đối với nhóm phụ nữ hiện nay có xu hướng coi trọng sự nghiệp, đặc biệt là nhóm lao động trẻ, lao động chất lượng cao, chính sách tăng thời gian nghỉ thai sản có thể tạo tâm lý e ngại sinh con thứ 2. Do sự lo lắng rằng việc vắng mặt dài hơn sẽ ảnh hưởng đến cơ hội thăng tiến, đánh giá hiệu quả công việc hoặc vị trí trong cơ quan, doanh nghiệp.

Vì vậy, đối với biện pháp này, nên có quy định mở, có sự phân biệt giữa các nhóm nghề, khu vực trước khi áp dụng.

Đồng thời, cần song song bổ sung các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giảm chi phí sử dụng lao động nữ, cũng như có chính sách bảo đảm cơ hội thăng tiến bình đẳng cho phụ nữ sau khi nghỉ thai sản.

Mặt khác, thay vì chỉ tập trung kéo dài thời gian nghỉ thai sản cho phụ nữ, cần mở rộng các chính sách hỗ trợ thực chất hơn để giảm gánh nặng cho phụ nữ trong việc sinh con và chăm sóc con.

Một trong những vấn đề cần được quan tâm là phát triển hệ thống nhà trẻ, cơ sở trông giữ trẻ từ 6 tháng tuổi, tạo điều kiện để phụ nữ quay trở lại công việc sớm hơn nếu họ có nhu cầu.

Bên cạnh đó, cần thay đổi tư duy trong xây dựng chính sách, nên quy định vợ hoặc chồng đều có thể nghỉ dài ngày để chăm sóc con mới sinh, thay vì chỉ quy định phụ nữ nghỉ dài như hiện nay.

Có thể xem xét cơ chế linh hoạt, trong đó tổng thời gian nghỉ của cả hai vợ chồng không quá 7 hoặc 8 tháng, tùy gia đình lựa chọn phân bổ. "Cách tiếp cận này vừa bảo đảm trẻ được chăm sóc, vừa thúc đẩy sự chia sẻ trách nhiệm giữa cha và mẹ, giảm áp lực cho phụ nữ trong giai đoạn sau sinh", bà Nga nói.

Theo đại biểu, thực tế hiện nay, với sự hỗ trợ của các thiết bị, dụng cụ hút – trữ – bảo quản sữa, người mẹ không nhất thiết phải ở cạnh con liên tục mà vẫn có thể bảo đảm trẻ được uống sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời theo khuyến cáo của ngành y tế. Vì vậy, chính sách nghỉ thai sản cần hướng đến sự linh hoạt hơn so với trước đây.

Đề nghị hỗ trợ cho phụ nữ sinh đủ 2 con ở tất cả các độ tuổi

Về duy trì mức sinh thay thế, ĐBQH Tô Văn Tám (đoàn Quảng Ngãi ) cho rằng có 2 vấn đề. Vấn đề thứ nhất là theo điểm b khoản 1 Điều 13 có 3 đối tượng được hỗ trợ tài chính: phụ nữ dân tộc thiểu số, phụ nữ dân tộc ít người; phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi; phụ nữ ở địa phương có mức sinh thay thế thấp.

ĐBQH: Chính sách nghỉ thai sản cần hướng đến sự linh hoạt hơn - Ảnh 2.

ĐBQH Tô Văn Tám (Ảnh: Media Quốc hội).

Theo quy định này đối tượng phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi được hiểu là chỉ phụ nữ sinh đủ 2 con trước 35 tuổi mới được hỗ trợ tài chính, còn lại thì không được. Do đó, ông cho rằng cần làm rõ cơ sở của quy định này.

Theo ông, quy định này nhằm khuyến khích người trong độ tuổi sinh đẻ đảm bảo nguồn nhân lực cho tương lai. Song nhìn ở góc độ hợp lý, tính công bằng thì chưa hợp lý.

Theo ông, điều này tạo ra sự phân biệt đối với những người sinh đủ hai con sau tuổi 35. Cùng với đó, chưa tính đến hoàn cảnh cá nhân của người phụ nữ sinh con sau tuổi 35.

"Những người phụ nữ này có thể họ cũng muốn sinh trước 35 tuổi, thế nhưng vì nhiều điều kiện, có thể do sự nghiệp, áp lực công việc, điều kiện kinh tế, tìm kiếm bạn đời chưa phù hợp hay là những yếu tố về khách quan khác của bản thân mà chưa thể sinh đẻ trước 35 tuổi. Sau đó họ sinh đủ 2 con sau 35 tuổi nhưng lại không được hỗ trợ", ông Tám nêu và cho rằng như vậy là chưa công bằng.

Từ phân tích đó, ông Tám cho rằng cần hệ thống lại quy định này cho đồng bộ hơn theo hướng hỗ trợ cho phụ nữ sinh đủ hai con ở tất cả các độ tuổi. Hơn thế, theo đại biểu cần có chính sách bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, hỗ trợ các dịch vụ về bảo đảm quyền bình đẳng trong lao động bằng một chính sách dân số việc làm thích hợp, không chỉ quy định đơn thuần là sinh trước 35 hay sau 35 tuổi.

Ngoài ra, có thể quy định cho phép hỗ trợ phụ nữ sinh đủ hai con. Luật quy định cho phép, còn đối tượng như thế nào, cách hỗ trợ ra sao theo đại biểu có thể trao quyền cho địa phương quy định đối tượng và mức hỗ trợ.

ĐBQH: Chính sách nghỉ thai sản cần hướng đến sự linh hoạt hơn - Ảnh 3.

ĐBQH Nguyễn Hoàng Uyên (Ảnh: Media Quốc hội).

Tham gia góp ý kiến, về khoản 1, Điều 13 quy định một số chính sách hỗ trợ khuyến khích sinh đủ hai con như nghỉ thai sản, hỗ trợ tài chính, nhà ở, ĐBQH Nguyễn Hoàng Uyên (đoàn Tây Ninh), thực tiễn cho thấy việc triển khai các chính sách này, đặc biệt là chính sách về nhà ở, gặp rất nhiều khó khăn do hạn chế về nguồn lực và khả năng cân đối ngân sách, nhất là tại các địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn.

Ngoài ra, các chính sách chưa thực sự khuyến khích mạnh mẽ vai trò của nam giới trong việc chia sẻ, chăm sóc con cái.

Vì vậy, đại biểu đề nghị ban soạn thảo rà soát, quy định theo hướng linh hoạt, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo tính khả thi.

UBTVQH cho ý kiến về dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), Luật Dân số

Đồng thời, bổ sung một số chính sách mang tính bền vững, thiết thực như hỗ trợ phát triển hệ thống dịch vụ trông giữ trẻ, giáo dục mầm non công lập và ngoài công lập đảm bảo chất lượng.

"Đây là giải pháp căn cơ giúp giảm gánh nặng chăm sóc con nhỏ cho các gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ, đặc biệt là lao động nữ sớm quay lại thị trường lao động", bà Uyên nói.

Đại biểu cũng đề nghị bổ sung chính sách giảm thuế thu nhập cá nhân cho gia đình sinh đủ hai con. Theo bà, đây là hình thức hỗ trợ trực tiếp có tính khuyến khích cao và phù hợp với xu hướng chính sách tại một số quốc gia đang đối mặt với tỉ suất sinh thấp.

"Chính sách này không chỉ hỗ trợ tài chính mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ yên tâm sinh và nuôi dạy con, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu dân số", đại biểu nói.