Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chính phủ

(Chinhphu.vn) - Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng giới thiệu toàn văn Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chính phủ do Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình trình bày tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV, chiều 20/10.
Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chính phủ- Ảnh 1.

Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình trình bày Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026 của Chính phủ - Ảnh: VGP

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Kính thưa Quốc hội,

Thưa đồng bào, cử tri cả nước!

Thực hiện Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ và căn cứ quy định của pháp luật liên quan, Chính phủ đã gửi tới Đại biểu Quốc hội Báo cáo đầy đủ, Báo cáo tóm tắt về công tác nhiệm kỳ 2021 - 2026. Tại Phiên họp sáng nay, Thủ tướng Chính phủ đã báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2025 và 5 năm 2021 - 2025; phương hướng, nhiệm vụ năm 2026. Đây chính là kết quả toàn diện và nổi bật của nhiệm kỳ vừa qua. Căn cứ vào nhiệm vụ của Chính phủ theo quy định của Hiến pháp, tôi trình bày tóm tắt một số nội dung chủ yếu về kiểm điểm công tác nhiệm kỳ như sau:

1. Về tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt nghiêm túc, ban hành 116 chương trình, kế hoạch hành động để tổ chức thực hiện có hiệu quả Hiến pháp, các đạo luật, nghị quyết, kết luận của Đảng và của Quốc hội. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực; 5 năm qua, Thủ tướng và các Phó Thủ tướng đã có hơn 400 chuyến công tác về làm việc với địa phương, cơ sở để kiểm tra, hướng dẫn thi hành Hiến pháp, pháp luật, nắm chắc tình hình thực tiễn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong tổ chức, thi hành pháp luật; đề cao trách nhiệm người đứng đầu, đảm bảo nguồn lực để thực hiện pháp luật. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm", gắn với phân bổ nguồn lực phù hợp và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; góp phần tạo sự chủ động, linh hoạt cho địa phương, khơi thông, giải phóng các nguồn lực để phát triển. Nhờ đó, Hiến pháp, pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm túc. Các nghị quyết của Quốc hội đã được thực hiện kịp thời, hiệu quả, góp phần quan trọng thúc đẩy KTXH phát triển, đảm bảo quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

2. Về xây dựng chính sách, pháp luật

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật, chuyển từ "quản lý" sang "kiến tạo phát triển", từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm"; chủ động, tích cực đề xuất nhiều dự án luật với cơ chế, chính sách thông thoáng, kiến tạo, góp phần hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, kịp thời tháo gỡ những "điểm nghẽn", "nút thắt" về cơ chế. Chính phủ đã tổ chức 45 phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật; trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật; thông qua 180 luật, pháp lệnh, nghị quyết (bao gồm cả Kỳ họp này), nhiều nhất từ trước đến nay; ban hành 1.400 nghị quyết, 820 nghị định. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành theo thẩm quyền gần 3.600 văn bản pháp quy dưới luật. Thực hiện đột phá chiến lược, Chính phủ đã không ngừng hoàn thiện thể chế, hình thành cơ sở pháp lý toàn diện, đồng bộ cho việc quản trị và phát triển đất nước.

3. Về quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại

Báo cáo KTXH 5 năm đã tổng kết đầy đủ, toàn diện tình hình đất nước nhiệm kỳ qua. Tôi xin nhấn mạnh những thành tựu nổi bật sau:

3.1. Kinh tế vĩ mô ổn định, tăng trưởng cao. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa với chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung giải ngân quyết liệt vốn đầu tư công; kiểm soát nợ công, bội chi NSNN trong giới hạn quy định. Tập trung chỉ đạo phát triển thị trường trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu; tăng thu, tiết kiệm chi, tập trung nguồn lực cho đầu tư phát triển. Nhờ đó, mặc dù phải đối mặt bối cảnh bất ổn, dịch bệnh và thiên tai, nhưng kinh tế vẫn phát triển với tốc độ cao, năm sau cao hơn năm trước, đưa quy mô nền kinh tế tăng cao xếp thứ 32 thế giới trở thành nước thu nhập trung bình cao. Đây là điểm sáng lớn được quốc tế đánh giá cao.

3.2. Thích ứng linh hoạt, kiểm soát hiu quả Đại dịch COVID-19. Trước tình hình dịch COVID-19 khắc nghiệt, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo huy động nguồn lực, thực hiện thành công chiến lược ngoại giao vaccine. Mặc dù không phải là quốc gia sản xuất vaccine nhưng Việt Nam đã tiêm chủng vaccine miễn phí cho toàn dân và bảo vệ hiệu quả tính mạng và sức khỏe của nhân dân, được thế giới đánh giá cao. Kiên định thực hiện "mục tiêu kép", nhanh chóng xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái "thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19", tạo tiền đề để sớm mở cửa trở lại nền kinh tế.

3.3 Công tác an sinh xã hội và chăm lo đời sống nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu, đạt nhiều kết quthiết thực. Trong nhiệm kỳ đã chi hơn 1,1 triệu tỷ đồng cho an sinh xã hội, chiếm 17% tổng chi NSNN. Đã thực hiện xóa trên 334 nghìn căn nhà tạm, nhà dột nát, hoàn thành mục tiêu trước 5 năm. Phê duyệt Đề án và đẩy mạnh thực hiện xây dựng nhà ở xã hội. Triển khai toàn diện, kịp thời các chính sách an sinh, khắc phục hậu quả thiên tai, nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân.

3.4. Các chương trình mục tiêu quốc gia được bố trí nguồn lực lớn, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Quốc hội giao trong nhiệm kỳ 2021–2026. Theo đó, Chương trình nông thôn mới có 79,3% số xã đạt chuẩn; Chương trình giảm nghèo bền vững đã đưa tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm mạnh từ 4,4% đầu nhiệm kỳ xuống còn 1,3% cuối nhiệm kỳ. Chương trình phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã hoàn thành, vượt 6/9 nhóm mục tiêu, cải thiện rõ rệt đời sống người dân.

3.5. Hạ tầng chiến lược có bước phát triển đột phá; được Chính phủ tập trung thực hiện và hoàn thành đồng bộ cho nền kinh tế. Đặc biệt, đến hết năm 2025, dự kiến hoàn thành hơn 3.200 km đường bộ cao tốc và hơn 1.700 km đường ven biển, vượt các mục tiêu đề ra. Nhiều công trình trọng điểm quốc gia về hàng không, năng lượng như sân bay Long Thành, đường dây 500kV được đẩy nhanh tiến độ. Hạ tầng số triển khai mạnh mẽ, đưa tốc độ Internet di động của Việt Nam vào nhóm 20 thế giới.

3.6. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước tiến bộ toàn diện. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa. Chất lượng giáo dục và y tế được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,2% dân số. Chỉ số Phát triển Con người (HDI) tăng 18 bậc, phản ánh sự tiến bộ vượt bậc của đất nước. Chính phủ cũng đã chỉ đạo quyết liệt tháo gỡ vướng mắc trong mua sắm, đấu thầu thuốc, thanh quyết toán cho bảo hiểm y tế. Đã trình Bộ Chính trị ban hành các nghị quyết quan trọng về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, y tế, giáo dục đào tạo và đang khẩn trương trình Quốc hội ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về 02 lĩnh vực y tế, giáo dục để tổ chức thực hiện. Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2025 - 2026; phê duyệt danh mục công nghệ và sản phẩm công nghệ chiến lược, phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo, góp phần lan tỏa tinh thần đổi mới trong xã hội. Công tác truyền thông, thông tin được tăng cường theo hướng chủ động, kịp thời, chú trọng truyền thông chính sách, đấu tranh ngăn chặn thông tin xấu, độc, góp phần củng cố niềm tin và tạo sự đồng thuận xã hội.

3.7. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Chính phủ đã ưu tiên các nguồn lực đầu tư xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt được nhiều kết quả tích cực, giữ gìn cuộc sống bình yên cho nhân dân.

3.8. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đầu tư, nâng tầm, đạt được nhiều kết quả, thành tựu to lớn. Chính phủ đã chỉ đạo công tác đối ngoại sâu rộng, chủ động và có trách nhiệm. Uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao, tạo được môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển, mở ra cục diện mới chưa từng có cho phát triển đất nướcTham khảo thêm

Để lại nhiều dấu ấn nổi bật; tạo thế, tạo đà, tạo lực để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mớiĐể lại nhiều dấu ấn nổi bật; tạo thế, tạo đà, tạo lực để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới
Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Báo cáo kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XVBáo cáo kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV
Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XVKhai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV