Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, tất nhiên điều này ai cũng biết. Nhưng để có sự xác định rạch ròi dân tộc nào trung tâm dân tộc nào ngoại vi, về văn hóa thôi chẳng hạn, thì hình như chưa có sự thống nhất. Ở đây tôi giới thuyết rằng, lấy dân bản địa làm trung tâm, thì ở Tây Nguyên, xin lấy các tộc người Tây Nguyên làm đối tượng, tất nhiên cũng chỉ là tương đối, bởi về số lượng, nhiều vùng ở Tây Nguyên chưa chắc người bản địa đã đông hơn người Kinh, còn về sắc tộc, thì nói người Tây Nguyên bản địa là nói chung, chứ cụ thể thì có rất nhiều tộc người hợp lại. Vậy nên xin lấy những tiêu chí chung nhất của Tây Nguyên để bàn về trung tâm và ngoại vi. Về cơ bản, khi chưa có sự giao thoa giữa người Kinh và người Tây Nguyên thì phương thức sống, nền tảng văn hóa của hai nhóm người này hoàn toàn khác nhau. Phương thức sản xuất dựa vào điều kiện sống, điều kiện địa lý, trình độ canh tác… quy định nên điều ấy. Sau này, bằng nhiều lý do, đầu tiên là cơ học, 2 nền văn minh lúa nước và nương rẫy gặp nhau, tạo nên sự giao thoa thú vị…
Chỉ nói về sự giao thoa văn hóa.
Văn hóa luôn gắn với đời sống của con người, do con người sáng tạo hoặc phát hiện ra nó. Phát hiện cũng là sáng tạo, tôi quan niệm thế. Và vì thế mà văn hóa nó gắn chặt với toàn bộ quá trình sống của con người. Phương thức sống và văn minh vật chất của người Tây Nguyên khác hẳn người Kinh. Từ phương thức sống ấy nó sinh ra các ứng xử văn hóa, trước hết là với tự nhiên, sau là với cộng đồng.

Phương thức sống và văn minh vật chất của người Tây Nguyên khác hẳn người Kinh.
Nếu như văn hóa của người Kinh gắn với lúa nước và những dòng sông thì văn hóa của người Tây Nguyên gắn với rừng. Họ cũng có sông có hồ có suối nhưng yếu tố rừng vẫn trội hơn, và cũng bởi, những dòng sông, con suối, cái hồ ấy cũng được rừng bao bọc, cũng trở thành một thành tố của rừng, làm nên diện mạo rừng.
Toàn bộ đời sống của con người Tây Nguyên từ khi sinh ra cho đến khi mất đều gắn với rừng, nó tạo ra một quan hệ tương hỗ, có cái này là có cái kia và ngược lại. Người Tây Nguyên sống hài hòa với rừng trong mối quan hệ sòng phẳng và tin cậy. Người ta tìm cách tránh hoặc thuần phục thú dữ chứ không đối đầu. Cái nhà rông cao vút và đơn độc giữa đồi thế mà không sợ gió Tây Nguyên được ví như những đàn ngựa hoang là bởi khi làm người ta đã tránh đối mặt với gió bằng cách tạo các đường cong cho cái nhà rông, vừa rất mềm mại, đẹp, vừa thắng được sức gió kiểu như lấy nhu thắng cương, lấy cái mềm dẻo thắng cái dữ dội, lấy sự trữ tình thắng cái ào ạt, lấy cái tĩnh thắng cái động… Người ta đốt rừng làm rẫy nhưng không phải đốt tràn lan, mà có sự chọn lọc, và du canh du cư không phải là đi luôn, mà sẽ quay về khi đám rẫy ấy tươi tốt trở lại. Người ta săn bắn nhưng không bao giờ bắt con có chửa hoặc còn nhỏ. Ngay các tổ ong thì cũng không dùng lửa hủy diệt như sau này mà có cách lấy mật mà ong không chết. Người ta ăn trâu chứ không đâm trâu, tức là dùng trâu thay người để cúng thần linh, tạ ơn thần linh. Và trước khi con trâu được dùng làm vật tế ấy, người ta đã làm lễ khóc trâu rất cảm động từ hôm trước. Và cuộc "ăn trâu" ấy không bao giờ diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, trước nghìn nghịt người như bây giờ, mà ngày xưa nó diễn ra khi trời chưa sáng, chỉ có các già làng chứng kiến. Tất nhiên thịt sau đó sẽ được chia đều như chúng ta vẫn ăn thịt trâu bò bây giờ.

Toàn bộ đời sống của con người Tây Nguyên từ khi sinh ra cho đến khi mất đều gắn với rừng
Người ta quan niệm vạn vật hữu linh nên người ta quý trọng tất cả, bởi chỗ nào, cái gì cũng có thần linh chứng giám. Quan hệ giữa con người với con người là một quan hệ vừa bình đẳng vừa thần phục. Người phụ nữ có vai trò quan trọng trong gia đình vì là chế độ mẫu hệ, nhưng thực chất tất cả các già làng, các thầy cúng… đều là đàn ông (sau này có một số phụ nữ làm già làng, do nhiều yếu tố khách quan chứ không phải bản chất cuộc sống là thế). Nhìn thì có vẻ sơ khai, nhưng quan hệ trong làng rất thuần nhất. Già làng là người có vai trò và ảnh hưởng rất lớn đến những việc trọng đại, nhất là dời làng, chống chọi với thiên nhiên, xử lý các hành vi của dân làng căn cứ vào luật tục, có tiếng nói cao nhất, quyết định trong những việc lớn liên quan đến đời sống cộng đồng.
Rồi "ngoại vi" xuất hiện, ở đây tôi muốn nói đến người Kinh. Các nhà sử học sẽ nghiên cứu cụ thể xem người Kinh xuất hiện ở Tây Nguyên từ khi nào, số lượng bao nhiêu, những ảnh hưởng về chính trị, kinh tế, vân vân, tôi nói suy nghĩ về văn hóa.
Như đã nói, người Kinh gắn với nền văn minh lúa nước, họ xuất hiện ở Tây Nguyên ồ ạt vào 3 thời kỳ chính: Một là thời ông Ngô Đình Diệm đưa dân đi lập các đồn điền, các khu trù mật, có một số người Bắc di cư, còn lại là dân miền Trung. Hai là thời chiến tranh chống Mỹ, song song với dân lên lập đồn điền, khu trù mật là các cán bộ người Kinh xuống 3 cùng với nhân dân. Và 3 là phong trào kinh tế mới sau 1975. Đây là thời kỳ đông nhất, ồ ạt nhất, nó khiến cho cơ cấu xã hội Tây Nguyên có rất nhiều thay đổi. Và có thể nói, số dân kinh tế mới vào Tây Nguyên sau năm 1975 tác động dữ dội nhất đến văn hóa bản địa Tây Nguyên.
Văn hóa bản địa Tây Nguyên vừa bảo thủ vừa rất nhanh nhạy hướng ngoại, nhất là trong lớp trẻ. Đấy là quy luật tự nhiên của mọi nền văn hóa, nhưng trong từng trường hợp cụ thể, sự tác động của con người cũng giúp nó rất nhanh biến chuyển theo hướng hòa nhập và thu nhận cái ngoài mình. Một nền văn hóa bản lĩnh là nền văn hóa biết tiếp thu cái gì tốt, phù hợp, tiến bộ và nhân văn, và biết bảo thủ để giữ lại cái gì tốt đẹp của mình. Sự bảo thủ của văn hóa Tây Nguyên không đủ để chống lại sự xâm nhập, bên cạnh đấy là sự tiếp tay có định hướng của những chủ trương của nhà nước có lúc chưa phù hợp.
Trước hết phải nói luôn, người Kinh lên Tây Nguyên đã mang theo văn minh của họ, nhất là những kiến thức thông thường trong đời sống, giúp người Tây Nguyên bản địa làm quen với đời sống hiện đại. Tôi đã chứng kiến cái cảnh mỗi làng người Tây nguyên đều có một hoặc vài gia đình người Kinh ở lẫn để buôn bán. Họ, rất vô tình, đã trở thành những người phổ biến kiến thức, từ chuyện nuôi con nhỏ, sinh đẻ có kế hoạch, vệ sinh phụ nữ, nấu ăn cho đến cách tính toán làm giàu, biết tích lũy chứ không làm gì ăn nấy như lâu nay… Nhưng đồng thời họ cũng mang theo một vài thói hư tật xấu của người Kinh, nhất là thời kỳ đầu của kinh tế mới, các vùng nông thôn miền Bắc toàn đẩy những gia đình có vấn đề trong địa phương mình đi. Không lười lao động thì cũng ăn cắp vặt. Không đẻ nhiều thì cũng bướng bỉnh… và họ đã vô tình truyền những điều ấy cho các nhân vật trung tâm mà chúng ta đang bàn tới ở đây. Từ chuyện chỉ cần đánh dấu dưới gốc cây có tổ ong mình thấy đầu tiên thì tức là nó là của mình, đến việc thả voi, trâu bò trong rừng không cần giữ, làm rẫy cách nhà ở hàng buổi đi bộ không cần trông… bây giờ điều ấy đã hoàn toàn biến mất...
Chúng ta đã đầu tư rất nhiều vào Tây nguyên. Có nhiều thứ đầu tư đúng và trúng, nhưng cũng có những sự đầu tư lãng phí, chưa kể nó đụng chạm đến văn hóa. Trong ứng xử chúng ta còn nước lớn, còn áp đặt. Rất nhiều chủ trương có ý tưởng tốt, có trách nhiệm, nhưng chỉ vì chúng ta chưa hiểu hết phong tục tập quán, những phong cách sống, những sâu xa văn hóa… nên dẫn đến những sai lầm. Chúng ta đã làm thay trong khi lẽ ra chúng ta chỉ là người khích lệ. Không thể làm thay văn hóa cũng như không thể dùng văn hóa này thay thế văn hóa khác, bởi văn hóa nó gắn với những con người và vùng đất cụ thể.

Xã hội chúng ta đang có rất nhiều biến động.
Xã hội chúng ta đang có rất nhiều biến động. Những biến động của quy luật khi mà văn hóa phải chống chọi với văn minh, của sự phát triển và bảo tồn. Nhưng cũng có những biến động rất khốc liệt do chính chúng ta gây ra từ những chủ trương cụ thể, mà phá rừng và làm thủy điện là ví dụ.
Phá rừng chính là cách tự ăn thịt mình. Người Tây Nguyên lâu nay sống chan hòa với rừng, nương tựa vào rừng, thân thiện với nhau mà sống. Tưởng là họ du canh du cư sẽ phá rừng rất ghê, té ra không phải. Họ có những luật tục rất chặt chẽ và cụ thể, có những hình phạt rất nghiêm khắc nếu ai đó phá hoại rừng một cách bừa bãi. Chúng ta bây giờ lớn bùi bé mềm chén hết. Sau khi rừng già, rừng nguyên sinh đã… cơ bản phá xong, thì ta xơi sang rừng nghèo. Và có ai mà phân biệt rừng nghèo với rừng giàu khi cưa mâm và xe ben đã vào giữa rừng. Rồi chúng ta quan niệm cao su cũng là… rừng. Cao su là cây công nghiệp, có thể nó tạo sự đổi đời ngay lập tức trong vòng mấy mươi năm, còn rừng, nó là sự kết tinh của đời sống dòng họ hàng ngàn năm, vạn năm, triệu năm, nó có đời sống của nó, có văn hóa của nó, văn hóa rừng. Những con người lấy rừng làm bầu bạn, lấy rừng làm lẽ sống đã sinh ra một thứ văn hóa rừng, họ tồn tại an nhiên với rừng, và ngược lại, rừng tốt tươi sinh sôi hài hòa với con người, bảo vệ nhau, nâng đỡ nhau và cùng tôn nhau trong một đời sống tưởng hoang sơ nhưng đậm triết lý nhân văn và duy mỹ. Cũng y hệt như người Kinh với văn minh lúa nước. Và thực tế đã chứng minh, suốt bao nhiêu năm chiến tranh, bom đạn thế, cán bộ, bộ đội và người dân đã sống với rừng, được rừng che chở, rừng cung cấp nguồn để sống và chiến đấu. Thế mà rừng cứ bạt ngàn xanh. Giờ, cả nước vì Tây Nguyên, nhưng cái để làm nên thương hiệu Tây Nguyên, là rừng, thì đã hết.
Không ai phủ nhận sự mê hoặc của ánh sáng đô thị, của văn minh tiện nghi vật chất, của thế giới hiện đại diệu ảo nhấp nháy mời gọi... Nhưng sống với nó rồi, mới thấy thèm một ngọn nồm nam hây hẩy, thèm một hương lúa non, thèm một cánh chim chấp chới... Cái khát thèm vật chất hiện đại là có thật và có lý. Nhưng cái bồi hồi nhớ thương làng quê truyền thống là cũng hiện hữu và không hề vô lý. Vậy giải thích như thế nào về cái sự tưởng như vô lý ấy?
Để kết thúc, tôi xin nhắc một ý ai cũng biết rồi, nhưng lý giải ra sao cũng vẫn chưa có hồi kết. Ấy là việc chiêng của Tây Nguyên. Bây giờ ai cũng biết nó là chiêng Tây Nguyên, là thương hiệu của Tây Nguyên, chỉ gắn với Tây nguyên dù nhiều vùng khác cũng có, được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, nhưng thực sự thì, người Tây nguyên không làm ra chiêng. Họ phải mua của người Kinh, người Lào, người Mã Lai… để rồi chỉnh sửa làm nên thương hiệu chiêng của mình. Đây chính là một cách thôn tính cả văn hóa và kinh tế ngoạn mục. Vậy thì trung tâm hay ngoại vi, lúc nào trung tâm, lúc nào ngoại vi, có lẽ phải tùy từng trường hợp cụ thể mà minh định, chí ít là trong trường hợp cụ thể này…
Và ở tỉnh Bình Định cũ, giờ nhập vào với Gia Lai thành tỉnh Gia Lai ấy, có một lò đúc chiêng ở huyện An Nhơn, ngày xưa chuyên cung cấp chiêng cho bà con Tây Nguyên.
* Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả