Làng quê hút khách ở Đà Nẵng dù không resort, không hào nhoáng

Không còn chỉ là biển xanh và phố thị sôi động, Đà Nẵng đang mở những con đường nhỏ đưa du khách về với làng quê, nơi trải nghiệm bắt đầu từ bữa cơm nhà, khu vườn rau và câu chuyện đời thường của người dân.

Giữ rừng, giữ nghề để làm du lịch

Chiều 24/12, tại Đà Nẵng diễn ra hội nghị tổng kết chương trình phát triển du lịch nông thôn trong xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021–2025, nhìn lại chặng đường 5 năm đưa du lịch rời biển và phố thị, mở lối về làng quê.

Ông Văn Bá Sơn, Phó giám đốc Sở Thể thao, Văn hóa và Du lịch Đà Nẵng, chia sẻ, du lịch nông nghiệp, nông thôn không chỉ là một xu hướng nhất thời mà là một hướng đi tất yếu trong chiến lược phát triển du lịch bền vững. Loại hình này giúp giảm tải cho các điểm đến trung tâm, đồng thời tạo sinh kế cho người dân, bảo tồn văn hóa và giữ gìn tài nguyên thiên nhiên.

Không resort, không hào nhoáng, làng quê hút khách ở Đà Nẵng- Ảnh 1.

Ông Văn Bá Sơn cho rằng du lịch nông nghiệp, nông thôn là hướng đi tất yếu trong chiến lược phát triển du lịch bền vững của Đà Nẵng.

Với Đà Nẵng, thành phố trực thuộc Trung ương có không gian trải dài từ biển, đồng bằng đến trung du và miền núi, dư địa cho du lịch nông thôn đặc biệt lớn.

Trong 5 năm qua, hàng loạt mô hình đã hình thành và được vinh danh ở tầm quốc gia, quốc tế. Làng rau Trà Quế được UN Tourism công nhận là "Làng du lịch tốt nhất thế giới 2024". Rừng dừa Cẩm Thanh đón hơn một triệu lượt khách mỗi năm. Nhiều làng chài, làng nghề, điểm du lịch cộng đồng đạt chuẩn OCOP, ASEAN, Việt Nam.

Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Trinh Phượng, Phó Trưởng phòng Quản lý Lữ hành, Sở Thể thao, Văn hóa và Du lịch Đà Nẵng, giai đoạn 2021–2025, toàn khu vực Đà Nẵng và Quảng Nam (cũ) đã xác định gần 170 tài nguyên có thể phát triển du lịch nông nghiệp, nông thôn.

Không resort, không hào nhoáng, làng quê hút khách ở Đà Nẵng- Ảnh 2.

Riêng Đà Nẵng có khoảng 40 tài nguyên, Quảng Nam có gần 130. Thành phố đã hỗ trợ trực tiếp 21 mô hình với kinh phí khoảng 28 tỷ đồng; hơn 4.000 hộ dân tham gia, tạo việc làm cho 4.500 lao động trực tiếp và khoảng 10.000 lao động gián tiếp.

"Năm 2025, doanh thu từ du lịch nông nghiệp, nông thôn ước đạt trên 300 tỷ đồng, chiếm khoảng 30% lượng khách tham quan các điểm du lịch của thành phố", bà Phượng cho biết.

Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, du lịch nông thôn còn góp phần thay đổi nhận thức của cộng đồng. Người dân bắt đầu hiểu rằng cảnh quan, rừng, nguồn nước và văn hóa bản địa chính là "tài sản" quý giá nhất của mình.

Người dân trở thành "chủ thể kể chuyện"

Tại Hòa Bắc, vùng cửa ngõ phía tây bắc Đà Nẵng, một mô hình du lịch học tập cộng đồng đang phát triển theo cách rất khác. Đỗ Thị Huyền Trâm, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp sinh thái và Du lịch cộng đồng Hòa Bắc, cho biết: "Chúng tôi không bắt đầu bằng câu hỏi làm du lịch như thế nào, mà bắt đầu từ việc giúp người dân hiểu họ đang có gì".

Người dân chia sẻ cách trồng trọt, nấu ăn, giữ rừng, kể câu chuyện về khu vườn, con suối, bữa cơm gia đình. Du khách, đặc biệt là học sinh, sinh viên và các đoàn nghiên cứu, đến để học cùng người dân, chứ không chỉ để tham quan. Sau mỗi chuyến đi, cả cộng đồng lại ngồi lại với nhau, rút kinh nghiệm, điều chỉnh cách làm.

Không resort, không hào nhoáng, làng quê hút khách ở Đà Nẵng- Ảnh 3.

Những khu vườn rau, ruộng đồng trở thành không gian trải nghiệm của du lịch nông nghiệp.

Theo bà Trâm, khi người dân nhận được giá trị kinh tế trực tiếp từ chính câu chuyện và tri thức của mình, họ trở nên tự tin và có động lực bảo vệ môi trường. "Muốn có du lịch thì phải giữ rừng, giữ nước, làm nông nghiệp sạch. Đó không còn là khẩu hiệu mà là nhu cầu tự thân của người dân", bà nói.

Tuy nhiên, mô hình này cũng đối mặt nhiều khó khăn: hạ tầng hạn chế, người dân chưa quen cách làm mới, đặc biệt là thiếu cơ chế tài chính cho loại hình du lịch học tập cộng đồng, vốn thiên về giá trị giáo dục, trải nghiệm hơn là dịch vụ thuần túy.

Không resort, không hào nhoáng, làng quê hút khách ở Đà Nẵng- Ảnh 4.

Ông Lê Quốc Việt cho rằng du lịch nông thôn phải lấy cộng đồng làm trung tâm, người dân là chủ thể.

Cùng quan điểm, ông Lê Quốc Việt, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Điểm đến xứ Quảng, cho rằng thách thức lớn nhất hiện nay là phát triển thiếu định hướng, dễ dẫn đến bê tông hóa và làm mất bản sắc.

"Du lịch nông thôn phải lấy cộng đồng làm trung tâm. Người dân là chủ, không phải diễn viên", ông Việt nói. Theo ông, Đà Nẵng và vùng phụ cận có thể chia thành 5 không gian du lịch, từ ven biển, đô thị đến trung du và miền núi cao. Mỗi vùng, mỗi xã cần xác định rõ một sản phẩm mũi nhọn, tránh trùng lắp.

Ông ví quá trình này như một cuộc "đi tìm kho báu". Kho báu chính là những giá trị bản địa đã tồn tại từ lâu: tri thức canh tác, làng nghề, văn hóa tộc người, cảnh quan tự nhiên. Điều cần thiết là những "nhịp cầu" kết nối, giữa doanh nghiệp du lịch đô thị và cộng đồng nông thôn, giữa hạ tầng hiện đại và lối sống truyền thống.

Nhìn về giai đoạn 2026–2030, ngành du lịch Đà Nẵng xác định sẽ không phát triển du lịch nông thôn bằng mọi giá. Theo ông Văn Bá Sơn, thành phố ưu tiên các mô hình quy mô vừa phải, hạ tầng "xanh và đủ dùng", đào tạo người dân trở thành đại sứ du lịch, đồng thời xây dựng bộ tiêu chí riêng cho du lịch nông nghiệp, nông thôn. 

Du lịch tăng nóng, Đà Nẵng trước áp lực quá tảiVì sao Đà Nẵng nhiều sản phẩm tốt nhưng vẫn khó vào siêu thị, sàn lớn?Đà Nẵng tăng tốc nhà ở xã hội, mở lối an cư cho người thu nhập thấp

"Chúng tôi hướng đến chất lượng thay vì số lượng. Mỗi chuyến đi của du khách phải là một trải nghiệm thực sự, không chỉ để xem mà để hiểu và gắn kết", ông Sơn nói.

Trong bối cảnh du lịch đại trà đang bộc lộ nhiều giới hạn, con đường về làng, dù chậm hơn, có thể lại là hướng đi bền vững nhất cho Đà Nẵng. Ở đó, giá trị không đo bằng số lượt check-in, mà bằng việc người dân giữ được rừng, giữ được nghề và sống tốt hơn trên chính mảnh đất của mình.