Ngay lúc này, khi viết những dòng chữ này, tôi vẫn đang chạy ngược chạy xuôi cùng bà con để ứng phó với lũ. Ngoài kia, nước đã bao vây tứ phía, dòng nước cuồn cuộn mang theo đất đá, cây gãy, bùn lầy nhấn chìm cả bản làng nơi tôi gắn bó. Cơn bão số 10 mang tên Bualoi vừa tràn qua đã để lại một bức tranh tiêu điều, tang thương. Và đau xót thay, đây đã là lần thứ ba trong năm quê tôi phải gồng mình chống chọi với thiên tai.
Một năm thiên tai kinh hoàng: từ bão số 3, số 6 cho đến nay là số 10. Mưa lũ liên tiếp khiến nhà cửa bị nhấn chìm, cây cối gãy đổ ngổn ngang, đường sá sạt lở nghiêm trọng. Người dân vùng cao chúng tôi vốn đã quen với sự khắc nghiệt của thời tiết, nhưng chưa khi nào lại cảm thấy mỏi mệt và kiệt quệ như lúc này. Lũ hết đợt này đến đợt khác không chỉ cuốn trôi tài sản, mùa màng, mà còn đánh thẳng vào một điều tưởng chừng đơn giản nhưng vô cùng thiết yếu: nước sạch.
Sau những ngày chống chọi với nước dữ, ai cũng mong được trở về nhà để tắm rửa, giặt giũ, lau sạch bùn đất. Thế nhưng, vừa đặt chân vào sân, tôi chợt sững lại: ôi thôi, nước sạch cũng không còn! Đường ống dẫn nước từ khe suối đã bị đất đá vùi lấp, cây cối đổ xuống cắt ngang dòng chảy. Cả bản xác định sẽ mất nước sinh hoạt ít nhất cả tuần, thậm chí dài hơn.
Điều khiến chúng tôi không khỏi lo lắng chính là tình trạng lặp đi lặp lại này. Năm nào cũng thế, hễ có mưa lũ là hỏng hệ thống nước. Bà con vùng cao, nơi tôi công tác, phần lớn phụ thuộc vào nguồn nước khe, nước suối. Đường ống dẫn nước được chắp nối từ núi cao về bản. Kiểu công trình này chỉ cần một trận lũ lớn là hư hỏng hoàn toàn.

Ảnh minh họa.
Trong khi đó, những ngày sau lũ lại là lúc nhu cầu dùng nước tăng cao hơn bao giờ hết. Nước để nấu ăn, để uống, để tắm giặt. Nước để rửa trôi bùn đất bám chặt khắp nền nhà, bức tường. Nước để thanh tẩy môi trường, hạn chế dịch bệnh. Không có nước sạch, chúng tôi buộc phải chắt chiu từng gáo nước mưa, từng chai nước dự trữ. Vợ chồng, con cái chúng tôi sinh hoạt dè sẻn đến mức cực đoan: chỉ dám dùng một ít nước để nấu cơm, còn lại nhường cho trẻ con rửa mặt, uống nước. Người lớn thì nhiều hôm đành chịu bẩn.
Có thể với người miền xuôi, chuyện thiếu nước sinh hoạt vài ngày là điều khó hình dung. Nhưng ở vùng cao chúng tôi, cứ mỗi trận bão lũ đi qua lại đồng nghĩa với cả tuần sống trong cảnh khốn khó ấy. Và điều tệ hại hơn, nó lặp đi lặp lại từ năm này qua năm khác, từ bão số 3 đến số 6, rồi nay là số 10.
Tôi đã chứng kiến nhiều cụ già mắt đỏ hoe vì không thể có nổi một chậu nước để rửa bộ quần áo bết bùn. Tôi đã thấy nhiều đứa trẻ đầu tóc rối bù, mặt mũi lem luốc, khóc lóc vì khát nước. Những hình ảnh ấy ám ảnh tôi mãi. Chúng tôi có thể gồng mình dọn bùn, có thể gác lại nỗi đau mất mùa, nhưng không thể sống nếu thiếu nước sạch.
Càng nghĩ, tôi càng thấy đau đáu: tại sao một nhu cầu cơ bản như nước sạch lại khó khăn đến thế? Tại sao năm nào cũng để bà con rơi vào cảnh khát nước giữa mênh mông lũ lụt? Trong khi lũ có thể khó tránh, thì việc đầu tư hệ thống nước sạch kiên cố, an toàn là điều hoàn toàn có thể làm được.
Đợt lũ nào qua đi, chúng tôi cũng nhận được hỗ trợ mì tôm, gạo, chăn màn. Tấm lòng của Nhà nước, của đồng bào cả nước quả thật rất đáng trân trọng. Nhưng thiết nghĩ, ngoài những hỗ trợ trước mắt ấy, điều nhân dân vùng cao chúng tôi cần nhất chính là một hệ thống nước sạch bền vững.
Hãy thử hình dung: nếu ngay bây giờ, tại các bản làng vùng cao có những bể chứa nước kiên cố, có trạm lọc nước đủ công suất, có hệ thống ống dẫn vững chắc chống chịu được thiên tai, thì đời sống người dân sẽ bớt khổ sở biết bao. Sau mỗi trận lũ, thay vì cuống cuồng đi tìm nguồn nước, bà con có thể yên tâm rằng vẫn còn một hệ thống nước sạch dự phòng để duy trì sinh hoạt.
Nhiều năm qua, các cấp chính quyền đã quan tâm đầu tư nhiều công trình hạ tầng, nhưng vấn đề nước sạch ở vùng lũ dường như chưa được đặt đúng vị trí. Chúng ta không thể mãi ứng phó theo kiểu "mất bò mới lo làm chuồng". Một hệ thống nước kiên cố không chỉ giúp bà con ổn định cuộc sống sau lũ, mà còn góp phần phòng ngừa dịch bệnh, bảo đảm sức khỏe cộng đồng, giảm thiểu gánh nặng y tế về sau.
Tôi không phải chuyên gia thủy lợi, càng không có khả năng tính toán chi phí xây dựng công trình nước sạch. Nhưng với tư cách một người dân, một cán bộ đang trực tiếp sống giữa vùng lũ, tôi hiểu rõ hơn ai hết rằng: đầu tư cho nước sạch chính là đầu tư cho sự sống. Một hệ thống nước sạch ổn định không chỉ giúp chúng tôi vượt qua khó khăn tức thời, mà còn là nền tảng cho tương lai phát triển lâu dài.
Nỗi khát nước sau lũ đã trở thành nỗi ám ảnh kéo dài. Chúng tôi chỉ mong các cấp, các ngành hãy lắng nghe tiếng nói từ cơ sở, hãy nhìn thấy những cảnh người dân đang phải vật lộn từng ngày vì thiếu nước. Một quyết sách đúng đắn hôm nay sẽ mang lại sự an tâm, bền vững cho nhiều thế hệ mai sau.
Nước sạch không chỉ là vấn đề của sinh hoạt thường ngày, mà còn là yếu tố gắn liền với sức khỏe và sự phát triển của con người. Đừng để bà con vùng cao mãi sống trong cảnh khát nước giữa mưa lũ triền miên.
Bão lũ có thể sẽ còn tiếp diễn, bởi đó là quy luật khắc nghiệt của tự nhiên. Nhưng nỗi lo thiếu nước sạch thì hoàn toàn có thể giải quyết nếu có sự quan tâm đầu tư đúng mức. Tôi mong rằng, sau những trận lũ kinh hoàng của năm nay, các cấp chính quyền sẽ nhìn thấu vấn đề và hành động kịp thời, để người dân chúng tôi không còn phải sống trong cảnh "trên bùn đất, dưới nước lũ, mà vẫn khát nước sạch" thêm lần nào nữa.
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả