Biên lãi ròng ngân hàng tiếp tục chịu áp lực cuối năm

Biên lãi ròng (NIM) của các ngân hàng tiếp tục chịu áp lực trong giai đoạn cuối năm khi chi phí huy động tăng nhanh hơn lợi suất tài sản. Áp lực thanh khoản, cạnh tranh huy động và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khiến nhiều ngân hàng phải tìm cách tối ưu chi phí và tái cơ cấu tín dụng để bảo vệ biên lợi nhuận.

Sức ép từ chi phí vốn

Chú thích ảnh Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN

Theo lãnh đạo nhiều ngân hàng, NIM trong quý vừa qua chịu áp lực giảm mạnh từ hai yếu tố chính là chi phí vốn tăng và lợi suất tài sản giảm. Thanh khoản căng thẳng đẩy chi phí vốn huy động tăng, trong khi lợi suất tài sản giảm do các ngân hàng duy trì chính sách hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp và khách hàng, đồng thời tăng tỷ trọng tín dụng doanh nghiệp trong bối cảnh tín dụng bán lẻ chưa phục hồi.

Áp lực chi phí vốn còn thể hiện rõ qua tỷ lệ cho vay/huy động (LDR) tại nhiều ngân hàng vượt 100%, thậm chí toàn ngành lên tới 110%. Để đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu tín dụng tăng cao vào cuối năm, nhiều ngân hàng phải tăng lãi suất huy động, đặc biệt trong tháng 11 khi các ngân hàng quy mô nhỏ điều chỉnh lãi suất tiết kiệm cá nhân. Trong khi đó, mặt bằng lãi suất cho vay chưa thể tăng tương ứng do yêu cầu hỗ trợ nền kinh tế, khiến NIM tiếp tục bị thu hẹp.

Thống kê từ Công ty Cổ phần FiinGroup cho thấy, NIM bình quân của 27 ngân hàng chỉ đạt 3%, giảm 0,1 điểm phần trăm so với quý II và 0,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ, mức thấp nhất kể từ quý IV/2018. Nhóm ngân hàng thương mại Nhà nước như Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) vẫn duy trì NIM trong vùng từ 2% đến 2,6% do giữ mặt bằng lãi suất cho vay thấp nhằm hỗ trợ thị trường, mặc dù chi phí huy động tăng. Ở phía các ngân hàng thương mại cổ phần, NIM bình quân giảm từ 3,6% xuống 3,4%, mức đáy trong nhiều năm. Một số ngân hàng ghi nhận mức giảm mạnh như Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội (SHB) với mức giảm 2 điểm phần trăm so với quý II và 2,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ; hay Ngân hàng TMCP Phát triển TP.HCM (HDBank) giảm 1,2 điểm phần trăm so với quý II và cùng kỳ. 

Dù vậy, vẫn có những ngân hàng ghi nhận sự phục hồi nhẹ nhờ duy trì tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay bán lẻ cao như Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank), Ngân hàng TMCP Phương Đông (OCB), Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) và Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB); trong đó Sacombank còn được hỗ trợ bởi khoản thu nhập lãi ghi nhận lại từ các khoản tái cơ cấu tại Khu công nghiệp Phong Phú. Trong hệ thống, VPBank tiếp tục duy trì hệ số NIM cao nhất đạt 5,2%, dù vẫn thấp hơn 0,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ.

Trên thực tế, nhiều ngân hàng đã bắt đầu tăng nhẹ lãi suất cho vay sau thời gian dài triển khai các gói vay ưu đãi. Đồng thời, nhiều ngân hàng tập trung tối ưu chi phí hoạt động bằng cách thu hẹp mạng lưới vật lý, chuyển đổi số và tự động hóa, giúp giảm chi phí cố định và phần nào bù đắp biên lãi ròng sụt giảm.

Các chuyên gia của Công ty TNHH Chứng khoán Vietcombank (VCBS) nhận định lãi suất cho vay có thể nhích tăng nhẹ để bù đắp NIM, nhưng nhìn chung vẫn duy trì ở vùng thấp nhằm hỗ trợ sản xuất, kinh doanh và đảm bảo an toàn hệ thống. Đồng quan điểm, Công ty Cổ phần Chứng khoán BIDV (BSC) cũng nhận định NIM khó trở lại mức bình quân trên 4% như trước đây do áp lực cạnh tranh huy động và cho vay khiến các ngân hàng phải chấp nhận biên lợi nhuận mỏng hơn để mở rộng quy mô và giữ chân khách hàng.

Triển vọng phục hồi

Mặc dù áp lực lên NIM trong ngắn hạn còn lớn, nhiều chuyên gia cho rằng NIM có thể cải thiện trong năm tới khi hoạt động đầu tư công được đẩy mạnh. Khi nguồn tiền đầu tư công được giải ngân, thanh khoản hệ thống trở nên dồi dào hơn, giúp giảm áp lực huy động và kéo giảm chi phí vốn đầu vào. Đồng thời, đầu tư công đóng vai trò dẫn dắt tăng trưởng kinh tế, từ đó kích thích nhu cầu tín dụng, tạo điều kiện giúp lợi suất tài sản cải thiện và hỗ trợ biên lợi nhuận. 

Bên cạnh yếu tố thị trường, các ngân hàng cũng đang chủ động tái cơ cấu danh mục tín dụng và nguồn vốn nhằm tạo dư địa cho NIM hồi phục. Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) tập trung nâng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) và đẩy mạnh tín dụng cá nhân, đặc biệt sản phẩm cho vay tín chấp vốn có biên lợi nhuận cao hơn. Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) cũng triển khai tái cơ cấu danh mục tín dụng theo hướng tập trung vào sản phẩm sinh lời tốt, đồng thời nghiên cứu phát triển các sản phẩm huy động mới với cấu trúc lãi suất linh hoạt nhằm tối ưu chi phí vốn. 

Trong dài hạn, việc mở rộng hệ sinh thái bán chéo và tăng thu ngoài lãi, như xu hướng thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ theo mô hình của Techcombank hay VPBank, được kỳ vọng giúp các ngân hàng giảm phụ thuộc vào biên lãi ròng truyền thống. 

NIM ngành ngân hàng đang ở vùng thấp nhất trong nhiều năm do chi phí vốn tăng mạnh và áp lực hỗ trợ nền kinh tế. Tuy nhiên, sự chủ động tái cấu trúc nguồn vốn, kiểm soát chi phí, chuyển dịch sang mảng bán lẻ, tín chấp và lợi thế từ đầu tư công có thể tạo nền tảng cho NIM phục hồi từ năm 2026.

Trong bối cảnh thách thức hiện tại, những ngân hàng có nền vốn rẻ, CASA cao, hệ sinh thái số mạnh cùng khả năng đa dạng hóa nguồn thu sẽ tiếp tục duy trì lợi thế cạnh tranh và khả năng chống chịu tốt hơn trước biến động thị trường.