Báo cáo kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV

(Chinhphu.vn) - Sáng ngày 20/10, tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã trình bày Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và 5 năm 2021 - 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026. Cổng Thông tin điện tử Chính phủ trân trọng giới thiệu Báo cáo do Thủ tướng Chính phủ trình bày.
Báo cáo kinh tế - xã hội do Thủ tướng Chính phủ trình bày tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV- Ảnh 1.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày Báo cáo tóm tắt kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 và 5 năm 2021 - 2025; dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 - Ảnh: VGP/Nhật Bắc

Kính thưa đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương!

Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồng chí lão thành cách mạng!

Kính thưa Chủ tịch Quốc hội và các đồng chí chủ trì!

Thưa các vị đại biểu Quốc hội, các vị khách quốc tế và đồng bào, cử tri cả nước!

Theo chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến Quốc hội 120 báo cáo, tờ trình, hồ sơ, tài liệu, trong đó có Báo cáo kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) năm 2025 và 5 năm 2021 - 2025; dự kiến kế hoạch phát triển KTXH năm 2026. Thay mặt Chính phủ, tôi xin trân trọng báo cáo Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước những nội dung chủ yếu như sau:

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH KTXH NĂM 2025 VÀ 5 NĂM 2021 - 2025

I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều vấn đề vượt dự báo, đặc biệt là hậu quả nặng nề của đại dịch COVID-19[1]; ở trong nước nhìn chung khó khăn, thách thức nhiều hơn thời cơ, thuận lợi; song với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, chúng ta đạt và vượt 22/26 chỉ tiêu KTXH chủ yếu, xấp xỉ đạt 2/26 chỉ tiêu[2], trong đó vượt toàn bộ chỉ tiêu về xã hội, an sinh xã hội; các năm 2024, 2025 đạt và vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu KTXH. Trong đó, 08 kết quả nổi bật là:

(1) Kiểm soát thành công và khắc phục hiệu quả đại dịch COVID-19 với tinh thần "Xác định sức khỏe, tính mạng của Nhân dân lên trên hết, trước hết", được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Trước hết thay đổi tư duy chống dịch phải kết hợp chặt chẽ tiêm chủng và hành chính[3]. Đẩy mạnh ngoại giao, quyết liệt triển khai Chiến dịch tiêm chủng vắc-xin miễn phí toàn dân, đưa Việt Nam "đi sau về trước", đứng thứ 5 thế giới về tỉ lệ bao phủ vắc-xin[4]; tỉ lệ tử vong ở Việt Nam khoảng 0,37%, thấp hơn nhiều trung bình thế giới là 1%. Hai là kịp thời chuyển đổi trạng thái, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả đại dịch COVID-19 để mở cửa sớm cho phát triển kinh tế[5]; hỗ trợ 119 nghìn tỷ đồng cho trên 68,4 triệu lượt người lao động và trên 1,4 triệu lượt người sử dụng lao động; miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí cho người dân, doanh nghiệp là 580 nghìn tỷ đồng; xuất cấp 23.300 tấn gạo; kịp thời xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển KTXH và đã thực hiện đạt trên 265 nghìn tỷ đồng[6].

(2) Kinh tế Việt Nam khẳng định đủ sức chống chịu trước các cú sốc bên ngoài, duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao hàng đầu thế giới. GDP năm 2025 dự kiến tăng trên 8%; bình quân giai đoạn 2021 - 2025 tăng 6,3%, cao hơn nhiệm kỳ trước (6,2%) (năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, tăng trưởng chỉ đạt 2,55%; giai đoạn 4 năm 2022 - 2025 tăng trưởng bình quân 7,2%/năm, vượt mục tiêu 6,5 - 7%). Quy mô nền kinh tế tăng từ 346 tỷ USD năm 2020 lên 510 tỷ USD năm 2025, tăng 5 bậc, lên vị trí 32 thế giới; GDP bình quân đầu người năm 2025 ước đạt khoảng 5.000 USD, gấp 1,4 lần năm 2020, vào nhóm thu nhập trung bình cao[7]. Cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng chuyển biến tích cực[8].

Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%[9], các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt 9,6 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần nhiệm kỳ trước, vượt xa mục tiêu 8,3 triệu tỷ đồng; trong khi miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí... khoảng 1,1 triệu tỷ đồng; tăng thu, tiết kiệm chi 1,57 triệu tỷ đồng. Thị trường ngoại hối cơ bản ổn định; mặt bằng lãi suất cho vay bình quân giảm 2,5% so với năm 2022[10]. Nợ công giảm từ 44,3% GDP năm 2020 xuống còn khoảng 35 -36% năm 2025 (giới hạn là 60% GDP); bội chi NSNN bình quân giảm từ 3,53% GDP giai đoạn 2016 - 2020 xuống 3,1 - 3,2% GDP nhiệm kỳ này[11]. Tổ chức FTSE nâng hạng thị trường chứng khoán Việt Nam từ cận biên lên mới nổi thứ cấp. Đến nay, có khoảng 1 triệu doanh nghiệp đang hoạt động, tăng trên 20% so với năm 2020. Các tổ chức quốc tế uy tín đánh giá cao kết quả chỉ đạo, điều hành, nâng hạng tín nhiệm và triển vọng tăng trưởng của Việt Nam (IMF đánh giá Việt Nam nằm top 10 nước tăng trưởng cao nhất thế giới; Standard Chartered dự báo Việt Nam thuộc nhóm 5 nước tăng trưởng nhanh nhất châu Á).

Các động lực tăng trưởng truyền thống đều phát huy hiệu quả. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 33,2% GDP, đạt mục tiêu 32 - 34%. Vốn đầu tư công đạt khoảng 3,4 triệu tỷ đồng, tăng gần 55% (số tuyệt đối tăng 1,2 triệu tỷ đồng) so với nhiệm kỳ trước; đầu tư không dàn trải, số dự án sử dụng ngân sách trung ương (NSTW) giảm từ 11.000 (nhiệm kỳ trước) xuống còn 4.600 dự án nhiệm kỳ này. Tổng vốn FDI đạt 185 tỷ USD, tăng gần 9% so với nhiệm kỳ trước[12] và thuộc nhóm 15 nước đang phát triển thu hút FDI lớn nhất thế giới. Quy mô thương mại tăng mạnh, từ 545,4 tỷ USD năm 2020 lên mức kỷ lục khoảng 900 tỷ USD năm 2025, thuộc nhóm 20 quốc gia dẫn đầu thế giới[13]; xuất siêu lớn, đạt 88,3 tỷ USD, tăng hơn 2 lần nhiệm kỳ trước[14]. Du lịch phục hồi, năm 2025 đón khoảng 22 - 23 triệu lượt khách quốc tế, cao nhất từ trước đến nay. Quyết liệt phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ[15].

(3) Ba đột phá chiến lược được triển khai quyết liệt, hiệu quả, mở ra không gian và kiến tạo phát triển. Công tác xây dựng và thực thi pháp luật được đổi mới về cả tư duy, cách làm; nhiều "điểm nghẽn" được kịp thời tháo gỡ. Trình Bộ Chính trị ban hành nhiều nghị quyết mang tính đột phá về đường lối, thể chế, chính sách[16]; trình Quốc hội thông qua trên 180 luật, pháp lệnh, nghị quyết và ban hành 820 nghị định, nhiều nhất trong một nhiệm kỳ từ trước đến nay[17]. Quyết liệt cải cách thủ tục hành chính (đã cắt giảm, đơn giản hóa gần 4.300 quy định kinh doanh, thủ tục hành chính và giấy tờ công dân)[18].

Hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đột phá với nhiều công trình quy mô lớn, hiện đại, có tính kết nối, lan tỏa và định hình cho tương lai[19]. Đến hết năm 2025, dự kiến hoàn thành 3.245 km đường bộ cao tốc (vượt mục tiêu là 3.000 km)[20] và 1.711 km đường ven biển (vượt mục tiêu là 1.700 km); cơ bản hoàn thành Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1 tiêu chuẩn 4F đầu tiên tại Việt Nam; đưa vào hoạt động các tuyến vành đai, đường sắt đô thị[21], cảng biển, cảng hàng không…[22]. Hoàn thành đường dây 500 KV Quảng Bình - Hưng Yên và Lào Cai - Vĩnh Yên chất lượng cao trong thời gian ngắn kỷ lục. Hạ tầng văn hóa, xã hội được đầu tư mạnh mẽ[23]; hợp tác công tư xây dựng Trung tâm Triển lãm quốc gia (VEC) thuộc top 10 thế giới.

Cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực; tỉ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 28,3% năm 2020 xuống còn 25% năm 2025; tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 64,5% năm 2020 lên 70% năm 2025[24]. Triển khai đào tạo 100.000 kỹ sư chíp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo đến năm 2030. Tốc độ tăng năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2025 ước đạt 6,85% (vượt mục tiêu là 6,5%/năm).

(4) Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được triển khai quyết liệt, đạt kết quả bước đầu quan trọng[25]. Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia và Trung tâm dữ liệu quốc gia đi vào hoạt động và phát huy hiệu quả[26]. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025 của Việt Nam xếp hạng 44/139 quốc gia, vùng lãnh thổ[27]. Hạ tầng số phát triển mạnh mẽ, rộng khắp; 100% xã, phường có hạ tầng băng rộng cáp quang; tốc độ Internet di động thuộc top 20 thế giới[28]. Thương mại điện tử phát triển nhanh, tăng bình quân 20%/năm; phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số có bước tiến quan trọng; Đề án 06 tạo chuyển biến căn bản trong phục vụ người dân, doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí xã hội khoảng 3.000 tỷ đồng/năm[29]. Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử năm 2024 xếp hạng 71/193, tăng 15 bậc so với năm 2020[30]. Triển khai sản xuất 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

(5) Nhiều dự án tồn đọng, kéo dài nhiều năm được xử lý quyết liệt, đạt kết quả tích cực, góp phần giải phóng nguồn lực cho phát triển. Đã trình Bộ Chính trị cho ý kiến xử lý 05 ngân hàng yếu kém (04 ngân hàng thương mại và Ngân hàng Phát triển đã hoạt động ổn định, hiệu quả)[31], 12 dự án, doanh nghiệp thua lỗ và các dự án năng lượng quan trọng tồn đọng kéo dài được giải quyết (như các dự án Nhà máy điện Sông Hậu 1, Long Phú 1, Thái Bình 2, BOT Vân Phong 1, Nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, điện khí Ô Môn, mỏ khí Lô B…)[32]. Tháo gỡ vướng mắc, đưa vào sản xuất, kinh doanh gần 1.200 dự án với tổng giá trị 675 nghìn tỷ đồng. Đang chỉ đạo rà soát, phân loại, đề xuất các cấp có thẩm quyền tiếp tục xử lý gần 3.000 dự án các loại với tổng vốn hàng triệu tỷ đồng và quy mô sử dụng đất hàng trăm nghìn ha. [33]

(6) Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có bước tiến bộ cả về nhận thức, hành động và kết quả; đời sống của Nhân dân được nâng lên[34]. Công nghiệp văn hóa, giải trí đang trên đà phát triển; có 10 di sản văn hóa của Việt Nam được UNESCO công nhận, ghi danh[35]. Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng 18 bậc, xếp hạng 93/193 quốc gia và vùng lãnh thổ[36]. Mạng lưới cơ sở y tế phát triển mạnh; chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên[37]; tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 90,2% năm 2020 lên 95,2% năm 2025. Chất lượng giáo dục được cải thiện; nhiều cơ sở giáo dục đại học tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế[38]; 100% học sinh Việt Nam (194 em) tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế đều đoạt giải[39]. Thực hiện miễn, hỗ trợ học phí từ mầm non đến phổ thông từ năm học 2025 - 2026; hỗ trợ ăn trưa cho trẻ em nhà trẻ bán trú ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, học sinh tiểu học, trung học cơ sở ở các xã biên giới và một số địa phương có điều kiện cũng đã chủ động hỗ trợ; dành nguồn lực để xây dựng 248 trường liên cấp nội trú, bán trú hiện đại tại các xã biên giới đất liền, trong đó trước mắt hoàn thành 100 trường trước năm học mới 2026 - 2027.

Các chính sách người có công, an sinh xã hội, giảm nghèo được triển khai toàn diện và đạt nhiều kết quả nổi bật với tinh thần "không để ai bị bỏ lại phía sau". Giai đoạn 2021 - 2025, đã chi 1,1 triệu tỷ đồng cho an sinh xã hội (chiếm 17% tổng chi NSNN), hỗ trợ gần 700.000 tấn gạo cho người khó khăn; mở rộng trợ giúp thường xuyên cho trên 3,5 triệu người có công, người yếu thế... Tỉ lệ hộ nghèo đa chiều giảm từ 4,4% năm 2021 xuống 1,3% năm 2025. Thu nhập bình quân người lao động hằng tháng tăng từ 5,5 triệu đồng năm 2020 lên 8,3 triệu đồng năm 2025. Hoàn thành mục tiêu cơ bản xóa nhà tạm, nhà dột nát sớm 5 năm 4 tháng với trên 334.000 căn nhà. Triển khai xây dựng 633.000 căn nhà ở xã hội, đang phấn đấu hoàn thành 100.000 căn trong năm 2025. Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay trên 10,6 triệu lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo, đối tượng chính sách với số tiền 517 nghìn tỷ đồng, trong đó có 22,1 nghìn tỷ đồng cho người vay mua nhà ở xã hội. Phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được chú trọng[40]; đã chi 47 nghìn tỷ đồng cho phòng chống, khắc phục hậu quả bão lũ. Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam xếp hạng 51/165, tăng 37 bậc so với năm 2016.

Tổ chức rất thành công kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, 50 năm Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, 80 năm Quốc khánh 2/9, Triển lãm "80 năm hành trình Độc lập - Tự do - Hạnh phúc" đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, đoàn kết, lòng tự hào dân tộc. Theo quyết định của Bộ Chính trị và đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, đã bố trí kinh phí gần 11 nghìn tỷ đồng tặng quà cho toàn thể Nhân dân nhân dịp Quốc khánh 2/9. Theo Liên Hợp Quốc, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2025 xếp thứ 46, tăng 37 bậc so với năm 2020 (xếp thứ 83).

(7) Triển khai quyết liệt, hiệu quả việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy của Chính phủ[41] và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp gắn với đẩy mạnh phân cấp, phân quyền. Biên chế khối hành chính nhà nước giảm 145.000 người; chi thường xuyên giảm 39 nghìn tỷ đồng/năm. Hoạt động của chính quyền địa phương 02 cấp dần đi vào nền nếp[42]; chuyển trạng thái từ quản lý hành chính sang phục vụ Nhân dân và kiến tạo phát triển. Công tác thanh tra, kiểm tra, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực được đẩy mạnh[43]. Kiến nghị thu hồi gần 425 nghìn tỷ đồng và 2.200 ha đất. Xử lý nghiêm và thu hồi tiền, tài sản từ các vụ án tham nhũng, kinh tế gần 13,6 nghìn tỷ đồng, 520.000 USD; kê biên tài sản giá trị gần 438 nghìn tỷ đồng[44].

(8) Tiềm lực quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia được giữ vững; trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Ưu tiên bố trí nguồn lực, tiết kiệm chi, tăng thu để nâng cao tiềm lực quốc phòng, an ninh, đủ sức tự vệ; sản xuất được một số loại vũ khí quan trọng. Đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm đạt kết quả tích cực[45]. Hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ về gìn giữ hòa bình, cứu hộ, cứu nạn quốc tế. Đối ngoại và hội nhập quốc tế là điểm sáng; ngoại giao kinh tế đạt nhiều kết quả; uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao; Việt Nam tái đắc cử Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2026 - 2028[46]; đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 38 nước, trong đó có 5/5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, 17 thành viên G20.

Đánh giá chung, trong bối cảnh nhiều khó khăn, thách thức, kết quả đạt được của năm 2025 và giai đoạn 2021 - 2025 là rất đáng trân trọng, tự hào; năm sau tốt hơn năm trước, nhiệm kỳ này tốt hơn nhiệm kỳ trước trên hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt là chúng ta đã giữ được "trong ấm, ngoài êm", được Nhân dân và cộng đồng quốc tế đánh giá cao; tiếp tục tạo xu thế đổi mới; tạo đà phát triển nhanh, bền vững; tạo lực phát triển bao trùm, toàn diện; tạo khí thế bước vào kỷ nguyên mới và củng cố, tăng cường niềm tin vững chắc của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

II. HẠN CHẾ, BẤT CẬP VÀ KHÓ KHĂN, THÁCH THỨC

Bên cạnh những kết quả đạt được là rất cơ bản, nước ta vẫn còn một số hạn chế, khó khăn. Áp lực điều hành ổn định kinh tế vĩ mô còn lớn. Cơ chế, chính sách chưa đủ mạnh để khai thác hiệu quả nguồn lực từ con người, thiên nhiên, văn hóa và để bảo vệ môi trường. Các thị trường bất động sản, vàng, trái phiếu còn diễn biến phức tạp. Sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực còn khó khăn. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số chưa thực sự trở thành động lực tăng trưởng chính. Nhân lực chất lượng cao còn thiếu, nhất là ngành mũi nhọn. Còn mâu thuẫn, chồng chéo trong một số quy định pháp luật; thủ tục hành chính phải cắt giảm mạnh hơn. Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp là việc khó, thực hiện trên quy mô lớn, thời gian ngắn, yêu cầu cao nên có nơi còn lúng túng, chưa đồng bộ. Việc xử lý các dự án, cơ sở nhà đất tồn đọng, kéo dài vẫn phải nỗ lực hơn nữa. Đời sống của một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo… Tình trạng ô nhiễm môi trường, ùn tắc giao thông, ngập úng, sụt lún, sạt lở… tại các đô thị lớn, miền núi chưa được xử lý hiệu quả. Thiên tai, bão lũ, thời tiết cực đoan hơn. Tình hình an ninh trật tự tại một số địa bàn, tội phạm an ninh mạng, công nghệ cao còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp…

III. NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

1. Nguyên nhân kết quả đạt được

Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư; sự giám sát, đồng hành, phối hợp hiệu quả của Quốc hội và các cơ quan trong hệ thống chính trị; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, chủ động bám sát tình hình, phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, phù hợp, hiệu quả của Chính phủ, các cấp, các ngành, các địa phương; sự ủng hộ, tham gia tích cực của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp; sự hợp tác, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.

2. Nguyên nhân hạn chế, yếu kém

Gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan; tình hình thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường; dịch bệnh, biến đổi khí hậu cực đoan; nước ta là nước đang phát triển, nền kinh tế đang chuyển đổi, quy mô còn khiêm tốn, độ mở lớn, năng lực nội tại và sức cạnh tranh còn hạn chế. Những yếu kém nội tại kéo dài từ lâu bộc lộ rõ hơn trong khó khăn. Phát triển còn dựa nhiều vào lao động giá rẻ, tài nguyên mà chưa dựa vào nền tảng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Một bộ phận cán bộ, công chức năng lực yếu, sợ trách nhiệm, sợ sai. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, hiệu quả.

3. Bài học kinh nghiệm

Trong báo cáo của Chính phủ gửi Quốc hội đã thể hiện đầy đủ 5 bài học kinh nghiệm; trong đó nhấn mạnh: Phải đoàn kết; nắm chắc thực tiễn, phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt, hiệu quả; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với phân bổ nguồn lực và tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; phân công nhiệm vụ "6 rõ: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả"; bố trí nguồn lực phải khả thi, hiệu quả; không né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; tăng cường thông tin, truyền thông, tạo niềm tin và đồng thuận xã hội.

IV. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP TỪ NAY ĐẾN CUỐI NĂM 2025

Thực hiện hiệu quả các Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ. Tập trung thúc đẩy tăng trưởng trên 8% gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn[47]; ứng phó kịp thời, hiệu quả các cú sốc từ bên ngoài; tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án tồn đọng kéo dài; phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch đầu tư công; chuẩn bị khởi công, khánh thành đồng loạt các công trình, dự án quy mô lớn, trọng điểm vào ngày 19/12/2025, trong đó có Dự án thành phần I đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, 02 trung tâm thể thao lớn ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh[48]; tiếp tục rà soát, triển khai hiệu quả chính quyền địa phương 2 cấp[49]. Làm tốt công tác an sinh xã hội, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán; huy động mọi nguồn lực khắc phục kịp thời hậu quả thiên tai, bão lũ; giữ vững trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập quốc tế.

Phần thứ hai

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2026

I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1. Mục tiêu tổng quát: Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Nâng cao tự chủ chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa. Ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng nền hành chính hiện đại, thông minh, tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả. Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển. Đột phá mạnh mẽ trong xây dựng kết cấu hạ tầng KTXH. Thực hiện tốt an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân. Quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Củng cố, tăng cường hơn nữa tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; đẩy mạnh đối ngoại và hội nhập quốc tế.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu: gồm 15 chỉ tiêu phát triển KTXH; trong đó tăng trưởng GDP phấn đấu đạt 10% trở lên; GDP bình quân đầu người đạt 5.400 - 5.500 USD; CPI bình quân tăng khoảng 4,5%; năng suất lao động xã hội bình quân tăng khoảng 8%; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm khoảng 1 - 1,5%[50]...

II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

(1) Tiếp tục ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; kiểm soát nợ công, bội chi NSNN trong giới hạn quy định. Phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác[51]; điều hành lãi suất, tỉ giá phù hợp; phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất cho vay; tập trung tín dụng cho sản xuất kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên; thực hiện hiệu quả các gói tín dụng ưu đãi[52]; quản lý hiệu quả thị trường vàng, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản. Phấn đấu tăng thu NSNN ít nhất 10%; triệt để tiết kiệm chi, giảm chi thường xuyên; tăng chi đầu tư phát triên lên 40%; cắt ngay từ khi phân bổ ngân sách 5% chi đầu tư (cho dự án đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng) và 10% chi thường xuyên (cho an sinh xã hội).

Làm mới và nâng cao hiệu quả các động lực tăng trưởng truyền thống (đầu tư, tiêu dùng, xuất khẩu). NSTW tập trung đầu tư các dự án quan trọng quốc gia[53]; ngân sách địa phương tập trung đầu tư các dự án liên tỉnh, liên xã. NSTW đầu tư không quá 3.000 dự án (kể cả dự án chuyển tiếp) cho giai đoạn 2026 - 2030. Tận dụng dư địa nợ công, bội chi giảm để phát hành trái phiếu cho phát triển hạ tầng chiến lược. Phấn đấu tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP. Phát triển mạnh thị trường trong nước, thương mại điện tử, kích cầu tiêu dùng, tổ chức các hội chợ lớn; quyết liệt phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại. Đẩy mạnh xuất khẩu; khai thác hiệu quả các thị trường truyền thống; mở rộng ký kết các hiệp định FTA mới với Trung Đông, Mỹ Latinh, châu Phi, Pakistan...

Thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới; phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo…; xây dựng, hoàn thiện cơ chế thử nghiệm có kiểm soát cho các mô hình kinh doanh mới. Hoàn thiện hành lang pháp lý và phát triển đồng bộ các loại thị trường (tài chính, chứng khoán, vàng, khoa học công nghệ, lao động, bất động sản…). Triển khai hiệu quả thí điểm thị trường tài sản mã hóa; thúc đẩy hình thành thị trường dữ liệu...; đẩy mạnh xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và các khu thương mại tự do thế hệ mới tại một số địa phương.

(2) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ cấu lại nền kinh tế; thực hiện quyết liệt các quyết sách của Bộ Chính trị trên các lĩnh vực quan trọng, then chốt. Xây dựng Chương trình phát triển các ngành công nghiệp nền tảng, mũi nhọn, công nghiệp mới nổi như đường sắt, năng lượng nguyên tử, năng lượng xanh, dựa vào khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo để khai thác hiệu quả không gian vũ trụ, không gian biển, không gian ngầm…; phát triển công nghiệp hỗ trợ mạnh mẽ hơn. Tiếp tục cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu; tăng vốn cho ngân hàng thương mại nhà nước; xử lý hiệu quả các tổ chức tín dụng yếu kém. Triển khai mạnh mẽ các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt, phát huy ngay hiệu quả các quyết sách của Bộ Chính trị về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân, giáo dục đào tạo, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân; thu hút có chọn lọc các dự án FDI gắn với chuyển giao công nghệ tiên tiến.

(3) Tập trung xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển. Tổng kết việc thí điểm các cơ chế, chính sách đặc thù để thể chế hóa thành chính sách chung cho cả nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển đặc khu kinh tế tại Vân Đồn, Vân Phong, Phú Quốc. Năm 2026, cắt giảm, đơn giản hoá 100% điều kiện kinh doanh không cần thiết; cắt giảm 50% thời gian, chi phí tuân thủ thủ tục hành chính so với năm 2024. Triển khai mạnh mẽ Đề án 06 và phong trào "Bình dân học vụ số"[54]. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo. Chú trọng giám sát và xử lý sau thanh tra; tăng tỉ lệ thu hồi tiền và tài sản[55].

(4) Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; tập trung xử lý các dự án tồn đọng kéo dài. Tăng cường tính chủ động, tự chủ, kiến tạo phát triển của địa phương; bảo đảm vận hành đồng bộ, hiệu quả chính quyền địa phương 2 cấp[56]. Đẩy nhanh xây dựng Chính phủ số, chính quyền số, công dân số. Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực, nhất là kỹ năng số và xây dựng bộ tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ (KPI) của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lấy mức độ hài lòng của Nhân dân, uy tín và hiệu quả là thước đo. Tập trung tháo gỡ dứt điểm vướng mắc cho các dự án tồn đọng kéo dài, nhất là các dự án bất động sản, năng lượng tái tạo, công nghiệp, thương mại, dịch vụ quy mô lớn…

(5) Tập trung đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng chiến lược. Đẩy nhanh tiến độ triển khai tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, các tuyến đường sắt kết nối với Trung Quốc, các tuyến đường sắt đô thị Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; phấn đấu khởi công đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam; đầu tư phát triển hệ thống đường cao tốc kết nối các vùng, miền và với các nước láng giềng. Triển khai Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 2, đường giao thông kết nối sân bay Tân Sơn Nhất; đảm bảo tiến độ xây dựng Cảng hàng không quốc tế Gia Bình, các dự án mở rộng Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc, Chu Lai, Phù Cát, Cà Mau, Thổ Chu; các cảng biển trung chuyển quốc tế Cần Giờ, Liên Chiểu và Cảng Hòn Khoai. Bảo đảm tiến độ các dự án Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận 1 và 2[57]. Đẩy mạnh triển khai hạ tầng 5G, internet vệ tinh và các trung tâm dữ liệu; phấn đấu khởi công nhà máy sản xuất chíp bán dẫn. Đầu tư hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu, văn hóa, thể thao, giáo dục, y tế. Có cơ chế, chính sách đột phá để khai thác hiệu quả không gian biển, không gian vũ trụ, không gian ngầm với tinh thần "vươn ra" biển lớn, "tiến sâu vào" lòng đất và "bay cao lên" vũ trụ.

(6) Tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học. Thúc đẩy việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai; dạy và học trí tuệ nhân tạo trong trường phổ thông[58]. Phát triển mạnh các đại học quốc gia, cơ sở giáo dục đại học xuất sắc và các cơ sở đào tạo nghề chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thị trường lao động; đào tạo nhanh 100.000 kỹ sư lĩnh vực chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo. Triển khai các chương trình, đề án nghiên cứu khoa học đột phá, tập trung vào 11 nhóm ngành công nghệ chiến lược.

(7) Chú trọng phát triển văn hóa, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống nhân dân[59]. Tổ chức thực hiện hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia. Nâng cao năng lực y tế dự phòng, y tế cơ sở, y học cổ truyền; đẩy mạnh triển khai Sổ sức khỏe điện tử và bệnh án điện tử trên phạm vi toàn quốc. Phấn đấu hoàn thành trên 110.000 căn nhà ở xã hội. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động; tăng cường kết nối cung cầu[60].

(8) Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và sàn giao dịch bất động sản. Xây dựng Đề án xử lý cơ bản tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, ùn tắc giao thông tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; điều chỉnh phù hợp lộ trình áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn khí thải phương tiện giao thông cơ giới đường bộ[61]. Triển khai hiệu quả Chương trình phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long và Chương trình phòng, chống lũ lụt, sạt lở, khô hạn miền Trung, Tây Nguyên và miền Bắc.

(9) Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Đẩy mạnh đột phá phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh; nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân. Bảo đảm an toàn tuyệt đối các sự kiện quan trọng của đất nước, đặc biệt là Đại hội lần thứ XIV của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XVI. Triển khai đồng bộ, hiệu quả, toàn diện công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, công nghệ; thúc đẩy ngoại giao văn hóa, ngoại giao nhân dân; chuẩn bị tốt cho tổ chức APEC 2027 tại Việt Nam.

(10) Chủ động hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền; tiếp tục đổi mới, sáng tạo, đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung, đặc biệt là phục vụ Đại hội lần thứ XIV của Đảng và bầu cử Quốc hội khóa XVI.

*

* *

Kính thưa Quốc hội!

Nhiệm kỳ vừa qua là hành trình của ý chí kiên cường, bản lĩnh vững vàng, trí tuệ sáng tạo của Đảng và nhân dân ta; là chặng đường của niềm tin, khát vọng và tinh thần vượt khó vì nước, vì dân. Trong muôn vàn khó khăn, thách thức, dưới sự lãnh đạo của Trung ương, mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư, chúng ta đã biến nguy thành cơ; biến tư duy thành nguồn lực; biến thách thức thành động lực; quý trọng thời gian, huy động sức mạnh từ Nhân dân, đạt được những thành tựu rất đáng trân trọng, tự hào, để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển đất nước và trưởng thành về mọi mặt. Bước vào giai đoạn mới, với sức mạnh đại đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng vươn lên và phong trào đổi mới sáng tạo, xây dựng Chính phủ số, xã hội số, công dân số, chúng ta nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ rất nặng nề nhưng vô cùng vinh quang mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.

Chính phủ trân trọng cảm ơn và mong tiếp tục nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; sự đồng hành của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; sự ủng hộ của đồng bào, cử tri cả nước, người Việt Nam ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Với niềm tin và khát vọng, Chính phủ tiên phong gương mẫu, đi đầu, nguyện đem hết năng lực, trí tuệ và trách nhiệm, cùng cả nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hòa bình, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội và đồng bào, cử tri cả nước./.


Tham khảo thêm

TRỰC TIẾP: Khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XVTRỰC TIẾP: Khai mạc Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV
Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV: Thực hiện công tác nhân sự vào ngày cuối tuần làm việc đầu tiênKỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV: Thực hiện công tác nhân sự vào ngày cuối tuần làm việc đầu tiên
Tham khảo thêm
Tham khảo thêm
Phối hợp chặt chẽ, chung sức đồng lòng để tổ chức thành công "kỳ họp lịch sử" của Quốc hội khóa XVPhối hợp chặt chẽ, chung sức đồng lòng để tổ chức thành công