Nữ chỉ huy tàu không số
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh ngày 15/3/1920, là con út của 10 anh em trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng giàu lòng yêu nước tại xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Lớn lên, Út Định trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. Nhưng trong cảnh nước mất nhà tan, vượt qua cuộc sống bình thường của một cô thôn nữ, Út Định sớm giác ngộ và lựa chọn con đường đi theo cách mạng đầy gian khổ, tham gia phong trào Đông Dương đại hội năm 1936. Hai năm sau, tháng 10/1938, bà được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Trong thời gian này, bà xây dựng gia đình với ông Nguyễn Văn Bích (Ba Bích) - Tỉnh ủy viên hoạt động công khai, một trong số các đồng chí cùng hoạt động. Trong kháng chiến, bà lấy tên là Ba Định (theo gọi thứ bên chồng), ngoài ra còn có các bí danh khác như Bích Vân, Ba Tấn, Ba Nhất, Ba Hận.
Mới sinh con trai được 3 ngày, ngày 4/10/1939, bọn mật thám đến bắt ông Nguyễn Văn Bích. Từ khi chồng bị bắt, bà chỉ được bồng con đến nhà tù thăm có một lần thì ông Bích bị Pháp đày đi Côn Đảo. Năm 1940, bà Nguyễn Thị Định và đứa con mới 7 tháng tuổi lại bị mật thám vây bắt. Chúng đưa hai mẹ con về Khám Lá Bến Tre. Bà buộc phải gửi con về nhà, trước khi bị đày đến nhà tù Bà Rá. Tại đây, bà nhận tin chồng đã hy sinh ngoài Côn Đảo. Đau đớn tột cùng, bà vẫn nhớ lời chồng dặn dò: “Dấn thân vào con đường cách mạng là phải chịu gian khổ, hy sinh”. Nhờ lời dặn đó, bà có thêm nghị lực để đứng vững cho đến khi ra tù (năm 1943).
Năm 1944, bà Nguyễn Thị Định bắt liên lạc với Đảng. Trong khí thế hừng hực của Cách mạng Tháng Tám, người góa phụ 25 tuổi đã dẫn đầu hàng ngàn quần chúng tràn vào cướp chính quyền tại tỉnh lỵ Bến Tre. Khi Pháp trở lại đánh chiếm Nam bộ, bà được bầu vào Ban Chấp hành Phụ nữ cứu quốc tỉnh.
Mùa gió Nam tháng 3/1946, tại Thạnh Phong (nay là hai xã Thạnh Hải, Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre), bà Nguyễn Thị Định làm thuyền trưởng cùng 3 chiến sĩ vượt biển ra miền Bắc xin vũ khí về cho chiến trường miền Nam đánh Pháp. Đến tháng 11/1946, khi gió chướng nổi lên, đoàn quay về với 12 tấn vũ khí, được ngụy trang thành thuyền buôn nước mắm. Chính chuyến đi lịch sử đầu tiên này đã mở ra con đường tiếp tế vũ khí trên biển, mở ra đường Hồ Chí Minh trên biển sau này.
Về lại Bến Tre, năm 1947, bà Nguyễn Thị Định được bầu vào Tỉnh ủy. Năm 1948, bà là Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc tỉnh, Ủy viên Mặt trận Liên Việt tỉnh. Năm 1951, thời điểm gian khó nhất của tỉnh, đồng chí được tăng cường về làm Phó Bí thư rồi Bí thư Huyện ủy Mỏ Cày, lãnh đạo khôi phục phong trào cách mạng trên địa bàn. Có thời điểm, bà phải rời địa bàn sang đứng chân trên đất Trà Vinh, Vĩnh Long để tránh sự ruồng bố của địch. Năm 1952, bà là Đoàn trưởng Phụ nữ cứu quốc tỉnh Bến Tre.
Người lãnh đạo phong trào Đồng Khởi
Sau Hiệp định Genève, bà Nguyễn Thị Định được chỉ định vào Thường vụ Tỉnh ủy và được giao nhiệm vụ ở lại miền Nam hoạt động bí mật trong điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ; biết bao lần vào sinh ra tử, nhưng nhờ sự yêu thương, đùm bọc của nhân dân, bà vẫn được an toàn.
Cuối năm 1959, với cương vị là Phó Bí thư Tỉnh ủy, bà được cử đi tiếp thu Nghị quyết số 15 và về Bến Tre đầu năm 1960, bà trực tiếp truyền đạt lại cho Tỉnh ủy. Chính bà Nguyễn Thị Định là người gọi cuộc nổi dậy khởi nghĩa tại Bến Tre bằng khái niệm “Đồng khởi” đầu tiên và là người trực tiếp chỉ đạo cuộc “Đồng khởi” đợt 1, nổ ra ngày 17/1/1960. Từ đây, ra đời “Đội quân tóc dài” huyền thoại và phương châm tiến công địch bằng “ba mũi giáp công” - chính trị kết hợp với vũ trang và binh vận, cách đánh địch sáng tạo tuyệt vời của chiến tranh nhân dân, đã nhanh chóng lan ra toàn miền Nam, làm thất bại hết chiến lược chiến tranh này đến chiến lược chiến tranh khác của Mỹ - ngụy, đến sụp đổ hoàn toàn 30/4/1975.
Sau cuộc Đồng khởi thắng lợi vang dội, tháng 4/1960, bà Nguyễn Thị Định được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đến năm 1965, tại Đại hội Phụ nữ toàn miền Nam, bà được bầu là Hội trưởng Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng miền Nam. Cũng trong năm này, bà được giao nhiệm vụ Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt Nam, tham gia Quân ủy miền, phụ trách phong trào chiến tranh du kích. Đến ngày 17/4/1974, Nguyễn Thị Định chính thức được phong quân hàm Thiếu tướng.
Từ năm 1965 - 1975, bà đã có nhiều đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà. Sự có mặt của bà trong Bộ Chỉ huy Miền đã góp phần làm cho cái nhìn của lãnh đạo, chỉ huy toàn diện, thấu đáo hơn trong lãnh đạo cuộc chiến tranh nhân dân. Mùa xuân 1975, trong 5 cánh quân rầm rập tiến về giải phóng Sài Gòn, nữ tướng Nguyễn Thị Định trong vai trò Phó Tổng tư lệnh Quân giải phóng, Phó Tổng chỉ huy chiến dịch.
Từ trong muôn vàn gian khổ, bao lần vào sinh ra tử, trải qua hai cuộc kháng chiến, cho đến khi giữ cương vị cao trong bộ máy nhà nước, bà Nguyễn Thị Định luôn giữ phẩm chất nhân ái, rộng lượng, bao dung, sống chan hòa, gần gũi, chân tình với mọi người. Bà như một người chị, người cô tận tụy chăm sóc từ cơm ăn, áo mặc cho các chiến sĩ, đồng chí, đồng đội; cảm thông sâu sắc những nỗi đau, mất mát và sự hy sinh cao cả của nhân dân, luôn chia sẻ một cách tinh tế và đầy tình người.
Những lần về lại quê hương Bến Tre, bà đều dành thời gian gặp gỡ, ân cần thăm hỏi và tìm mọi cách giúp đỡ những anh chị em, bạn bè hoạt động kháng chiến cùng thời, cũng như nhân dân trên địa bàn căn cứ cách mạng từng đùm bọc, cưu mang những người kháng chiến trong những năm chiến tranh gian khó. Có thể nói, cái tên chị Ba, cô Ba, bà Ba đã quen thuộc, thân thương, không chỉ sống mãi trong lòng nhân dân quê hương Bến Tre và cả nước, mà còn vượt ra xa, cả với bạn bè năm châu.
Lúc sinh thời, năm 1966, phát biểu tại Lễ kỷ niệm lần thứ 20 ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hồ chí Minh khẳng định: “Phó Tổng tư lệnh Quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta”.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định mất ngày 26/8/1992. Với nhiều đóng góp lớn cho Tổ quốc, nhân dân, bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất và nhiều huân chương cao quý khác. Năm 1968, bà được nhận giải thưởng Hòa bình quốc tế Lênin. Ngày 30/8/1995, bà được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Link nội dung: https://doanhnghiepcuocsong.vn/nguyen-thi-dinh-nguoi-nu-tuong-trung-kien-cua-nhan-dan-nam-bo-a188702.html