Đất nước đang bước vào chuẩn bị kỷ niệm 50 năm hòa bình, 50 năm Tổ quốc thống nhất. Nhiều tỉnh thành phía Nam đã và đang có những kế hoạch hoành tráng kỷ niệm ngày này. Tối 10/3, đúng ngày chiến thắng Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đã tổ chức khai mạc lễ hội cà phê, trước đó là lễ hội đường phố mở đầu chuỗi kỷ niệm.
Sáng qua tôi ngồi cà phê với anh bạn làm văn hóa của tỉnh Gia Lai. Tỉnh này chấm dứt chiến tranh 7 ngày sau Buôn Ma Thuột, là ngày 17/3. Ngày này năm 1975, hàng ngàn binh lính, sĩ quan và gia đình họ từ Kon Tum, Pleiku và cả Đăk Lăk đã tháo chạy khỏi Tây Nguyên để về Tuy Hòa bằng con đường số 7, giờ là đường 25, con đường lịch sử, đường máu và nước mắt, và đã có rất nhiều sách viết về nó. Phía đối phương là cuốn "Cuộc tháo chạy tán loạn" của Frank Snepp, một sĩ quan tình báo CIA, và bên này là cuốn "Trong cơn gió lốc" của nhà văn Khuất Quang Thụy, khi ấy là chiến sĩ của sư đoàn 320, sau này là đại tá, tổng biên tập báo Văn Nghệ, và rất tiếc, ông mới mất trước sự kiện này mấy hôm. Là tôi nhắc 2 cuốn sách chợt nhớ đại diện cho... 2 phe, chứ cái đường 7 này, tới giờ vẫn còn những bi kịch phát lộ, như những đứa trẻ đi lạc từ hồi ấy, rất nhiều, giờ đang tìm cách chắp nối quan hệ, tìm về gia đình, có trùng phùng, nước mắt, và có cả đau khổ, phân ly. Cái chương trình "Như chưa hề có cuộc chia ly" của cô nhà báo Thu Uyên đã làm mấy chương trình về (và ở) con đường này, bản thân tôi cũng từng có một cái điều tra về một đứa trẻ ở Pleiku bị lạc trong cuộc tháo chạy khổng lồ ấy, vào một làng người Jrai, trở thành người Jrai, và mấy chục năm sau mới tìm lại được ba mẹ đẻ người Kinh ở Pleiku. Và có cả chuyện một đứa trẻ Jrai lạc lên Pleiku, làm con một gia đình người Kinh ở đấy, trở thành cán bộ nhà nước vân vân...
Một lớp học ở Trường TN DT vừa học vừa làm Đak Tô, 1977 - lần đầu tiên xuất hiện trong 1 triển lãm. Ảnh tư liệu sưu tầm.
Anh bạn văn hóa này đang làm một việc rất ý nghĩa, rất vui, là tổ chức một cái triển lãm mang tên "Năm tháng chưa xa". Nó khác xa các triển lãm bề thế, trang trọng, đầy đủ..., nhưng chỉ đông lúc... khai mạc. Triển lãm này tôi tin, sẽ có rất đông người xem, dù không trống giong cờ mở như các cuộc khác.
Ấy là anh này trình ra cho chúng ta thấy "có một thời như thế".
Lại nhớ những ngày ấy.
Năm 1976, khoảng đầu năm, ba tôi sau chuyến đầu tiên về quê, là Huế, chính xác là cái làng Thế Chí Tây, của huyện Phong Điền, giờ là phường Phong Phú, thị xã Phong Điền, thành phố Huế ấy, một chuyến đi chui, nhờ xe bộ đội, ba tôi trở ra và bàn với mẹ tôi là cho tôi về thăm quê. Tôi được giao một nhiệm vụ quan trọng là... thám thính và sẽ là người có vai trò quyết định khi đứng về phe nào thì phe ấy... thắng. Tức ba tôi thì đòi về quê, mẹ tôi thì chưa chịu. Cả 2 ông bà chả ai quê Thanh Hóa cả, mẹ tôi Ninh Bình, ba người Huế, cùng gặp nhau ở Thanh Hóa rồi sinh anh em tôi ở đấy, về hưu cũng ở đấy chứ không về Ninh Bình vì toàn bộ tuổi trẻ của ông bà đã gắn với Thanh Hóa. Tôi thành người quan trọng trong quyết định quan trọng của gia đình. Mà cũng xứng đáng để quan trọng vì khi ấy tôi đã tốt nghiệp cấp 3 hệ 10 năm ở Thanh Hóa, đủ trưởng thành để làm "người quan trọng" trong nhà, dù so với các bạn cùng tuổi bây giờ thì phải tự nhận là tôi hết sức ngu ngơ.
Sau chuyến đi ấy thì, tất nhiên, tôi nghiêng về phía ba tôi.
Và thế là cả nhà tôi về quê.
Đúng nghĩa là cơm đùm cơm nắm. Mẹ tôi nấu cơm nắm. Đồ đạc gọn 2 cái ba lô, 1 cái rương và 2 bao tải. Một cái bao tải có cái chậu đồng rất to, anh em tôi từng nồng nỗng tắm trong ấy, mấy cái xoong, cái ấm Liên Xô đã cháy phần gỗ, mẹ tôi lấy giẻ quấn để xách cho khỏi nóng, tới khi tôi lấy vợ, đưa vợ về vẫn còn. Một bao nữa là chổi cùn giẻ rách, và cả... sách học của anh em chúng tôi.
Lên tàu từ Thanh Hóa, vào Vinh, nằm mấy ngày ở đấy mua vé xe liên vận đi tiếp vào Huế.
Trên đường dấu vết chiến tranh còn dày đặc.
Tôi học văn thuộc loại giỏi, nhiều năm là học sinh giỏi, dẫu khi thi vào khoa Văn đại học Tổng hợp Hà Nội chỉ được 1 điểm văn, vì tôi chỉ viết theo ý mình, không chịu theo đáp án, sau thi vào Đại học Tổng hợp Huế mới đậu và học ở đấy. Nhưng kể để dẫn rằng, hồi ấy đi qua nơi nào tôi đều biết, dù là lần đầu tiên, kể vanh vách vùng ấy, là nhờ đọc sách nhiều và giỏi văn. Qua Quảng Bình, hố bom như bát úp. Sau này tôi mới biết, nói hố bom như bát úp là cách nói/ viết theo thói quen, là một cách diễn đạt lười, bởi chính xác, các hố bom nó phải như bát ngửa. Hàng nghìn cái bát ngửa như thế trên những cánh đồng mà tàu và xe chở chúng tôi đi qua, từ Vinh, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Vĩnh Linh...
Thì trở lại những ngày của "năm tháng chưa xa" ấy.
Tôi lên Gia Lai Kon Tum năm 1981, sau khi vừa tốt nghiệp đại học. Một cái ba lô có mấy bộ quần áo, trên nắp balo gập cái chiếu đơn, ít tiền mẹ cho lận trong túi.
Tác giả thời mới lên Pleiku (thứ 2 từ phải sang)
Là tôi xung phong lên, chứ hồi ấy, cả miền Trung Tây Nguyên mới có mỗi trường Đại học Tổng Hợp Huế này, tôi lại khóa 1, chả phải đi xin việc như bây giờ, mà các cơ quan trong vùng cử cán bộ tới tận trường xem hồ sơ rồi... xin sinh viên.
Nhưng tôi thích đi xa, lên Tây Nguyên một chuyến cho biết, rồi về. Là tính sẽ ở 3 năm rồi về quê.
Và giờ, tính ra đã có 44 năm ở đây rồi.
Thế nên gặp cái triển lãm này nó mới nôn nao. Và không chỉ tôi, nhiều người nôn nao, cả người đã trải qua và những người nghe kể, cả người lớn tuổi tới người trẻ, bởi họ muốn biết, ngày hôm qua, những ngày của cha anh họ ấy, như thế nào?
Nó là cái triển lãm ảnh về quãng thời gian Gia Lai – Kon Tum chung một nhà (1975-1991), và đây cũng là thời bao cấp khó khăn nhất của cả nước nói chung, Gia Lai Kon Tum nói riêng, bình quân đầu người khoảng 300kg gồm cả màu/năm thì biết rồi, nên nhiều hình ảnh sẽ giúp hình dung lại một giai đoạn chưa xa nhưng rất hãi hùng, khi mà trong nhà thì thường xuyên thiếu đói, ăn thì độn đến 80% sắn lát hoặc bo bo, còn "kinh tế trọng điểm" của tỉnh Gia Lai Kon Tum khi ấy là xuất khẩu, chủ yếu là gỗ, và ngoài gỗ, còn có cả cả sắt phế liệu (từ chiến tranh), như một niềm tự hào.
Khi ấy, Pleiku được Mỹ và chính quyền Sài Gòn cũ xây dựng để là một đô thị phục vụ chiến tranh. Nó chỉ gồm những khu gia binh (dành cho gia đình binh lính, sĩ quan), nhưng đã hiện đại hơn ngoài Bắc cùng thời, là mỗi dãy có khoảng chục gian nhà, xây taplo, lợp tôn rất dày và có nhà vệ sinh tự hoại trong nhà.
Còn dân thì ở trong những ngôi nhà vách gỗ ép, đa phần là thông (kể ra bây giờ có nhà vách gỗ lại là nhà... có điều kiện, phù hợp môi trường), nền xi măng, cũng lợp tôn, xung quanh rào bằng dây thép gai, khiến nhiều lúc cứ nhớ câu thơ của Nguyễn Đình Thi "Dây thép gai đâm nát trời chiều".
Nhưng thông thì rất nhiều. Rờm rợp xanh.
Nhưng nước thì hiếm, rất hiếm.
Thì hãy hình dung nhé, Pleiku là một đô thị được xây dựng trên những quả đồi, nhấp nhô lượn sóng, nó chính là tàn tích của những miệng núi lửa từ hàng triệu năm trước. Nếu nhà trên cao, nước kéo được lên đấy là cả một vấn đề, nhất là thời ấy quy mô nhà máy nước không như bây giờ, vả nữa, mỗi tuần chỉ chảy một lần. Nên là đành phải đào giếng, nhà nhà đào giếng, người người đào giếng. Và mỗi cái giếng như thế, "cạn" nhất là 50 mét, không thì cả trăm mét.
Và không thể kéo nước bằng "gàu" thông thường, mà hoặc là máy bơm, mà điện thì cũng tuần có 1 lần, và thường thì không đủ công suất, và hai, chủ yếu là, quay tay. Nên nền "cơ khí" lúc ấy có một nghề là rèn các tay quay nước như thế...
Và cũng đồng nghĩa, đương nhiên, nhà nào cũng phải có những cái thùng phuy chứa nước. Phải đi mua, đa phần là thùng đựng nhựa đường, loại được đánh giá là tốt nhất, không thì đựng các loại khác, không biết nguồn, có thùng đựng hóa chất, không loại trừ là cả thùng thuy đựng thuốc trừ sâu...
Nhưng mà, cứ sáng chủ nhật, lại gặp những tà áo dài đến nhà thờ làm lễ, nó mới thanh bình, mới yên ổn làm sao...
(Còn tiếp)
* Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
Link nội dung: https://doanhnghiepcuocsong.vn/nhung-ngay-thang-cu-a188512.html