Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam

Nhân kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, GS.TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã dành cho phóng viên báo Tin tức buổi trò chuyện về thời cơ, thách thức và trách nhiệm lịch sử của Đảng khi Việt Nam bước vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Chú thích ảnh GS.TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Thưa ông, vì sao đây được xem là thời cơ để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới?

Dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới là bước vào thời kỳ phát triển tăng tốc, bứt phá, làm thay đổi căn bản về chất của nền kinh tế - xã hội, đem lại sự thịnh vượng, phồn vinh cho đất nước trong bối cảnh thế giới đang thay đổi có tính thời đại.  

Thời điểm hiện tại, Việt Nam chuẩn bị được tiền đề, điều kiện, nền tảng vững chắc để sẵn sàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Cụ thể, sau 40 năm đổi mới, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” hay như Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nói, sau 40 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu vĩ đại để sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới. Điều có có thể minh chứng được trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Về kinh tế, Việt Nam từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, thu nhập bình quân chỉ khoảng 100 USD/người, nhưng đến nay mức này lên tới hơn 4.600 USD/người; Việt Nam nằm trong nhóm 40 nước có quy mô nền kinh tế lớn nhất thế giới; các chỉ số đổi mới sáng tạo đều có bước phát triển tốt.

Việt Nam xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đều đạt được những thành tựu rất quan trọng. Điều này góp phần đưa Việt Nam trở thành nước đang phát triển với tốc độ nhanh, bền vững, là đểm đến của nhiều nhà đầu tư lớn trên thế giới.

Về xã hội, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội đạt được thành tựu nổi bật, được Liên Hợp Quốc công nhận. Đặc biệt, Việt Nam đi đầu trong các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc như xóa mù chữ, phổ cập tiểu học, trung học phổ thông hay sự phát triển của giáo dục đại học, dạy nghề. Đời sống của nhân dân giữa các vùng miền được quan tâm, từng bước có sự khởi sắc, đảm bảo tính truyền thống và hội nhập quốc tế.  

Về y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng được thế giới công nhận, độ bao phủ bảo hiểm y tế ngày ngày càng rộng khắp. Việt Nam là nước có chỉ số hạnh phúc tăng trưởng nhanh, tuổi thọ bình quân được nâng lên.  

Việt Nam chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc  và từng bước xây dựng được hệ giá trị quốc gia “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, hệ giá trị văn hóa dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học, gắn với giá trị gia đình Việt Nam với giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới. Việc phát triển con người quan tâm các yếu tố: Đức - Trí - Thể - Mỹ, nghĩa là phát triển con người toàn diện, hội nhập và đổi mới.

An ninh, quốc phòng được đảm bảo và giữ vững, nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân được củng cố và tăng cường vững chắc.  

Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; chúng ta có quan hệ với 194 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, chúng ta đã có quan hệ đối tác hơp tác chiến lược, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc; mở rộng, tăng cường hội nhập vào các định chế quốc tế. Việt Nam được đánh giá là thành viên có trách nhiệm và tích cực tham gia vào việc duy trì ổn định, hòa bình và phát triển chung của thế giới.  

Chú thích ảnh Tổng Bí thư Tô Lâm có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XIV (Lớp 3) tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Ảnh: Thống Nhất /TTXVN

Trải qua 95 năm trưởng thành, phát triển cùng với quá trình chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo dựng được truyền thống rất vẻ vang và tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý giá trong lãnh đạo xây dựng và phát triển đất nước.  

Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định, Lịch sử Đảng là một “pho lịch sử bằng vàng”.  Được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, ngay từ khi thành lập, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn là độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Với ngọn cờ tư tưởng đó, chỉ sau 15 năm ra đời, trải qua 3 cao trào cách mạng và với chỉ 5000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng 8 -1945, lật đổ ách thống trị của thực dân phong kiến, lập nên Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa – nhà nước dân chủ mới đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nước ta vào kỷ nguyên độc lập, tự do trong thời đại Hồ Chí Minh.  

Đảng ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, đưa đến chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Đảng vừa lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Với hai nhiệm vụ chiến lược đó, qua 20 năm, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối. Với nền tảng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Việt Nam bước vào kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, đổi mới, hội nhập và phát triển.  

Sau năm 1975, Việt Nam tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, đồng thời phải dồn sức chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Mặt khác, Việt Nam còn bị bao vây cấm vận và mắc phải một số sai lầm khi phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, với bản lĩnh vững vàng, kiên định, trí tuệ và sáng tạo, Đảng khởi xướng và lãnh đạo nhân dân ta thực hiện công cuộc đổi mới, mở cơ đồ rộng lớn, tiềm lực và vị thế vững vàng cho kỷ nguyên thứ hai của đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh.

Điều đặc biệt là trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã đúc kết thành lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là lý luận về con đường giải phóng dân tộc, lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu của cách mạng và con đường cách mạng là con đường gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Đó là lý luận về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân. Đó là lý luận về nền ngoại giao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn đề cao chính nghĩa và hòa hiếu. Đặc biệt là lý luận về đường lối đổi mới, thể hiện tầm cao tư duy lý luận của Đảng, tạo tiền đề tư tưởng, lý luận cho sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới.  

Mặc dù thế giới với nhiều diễn biến phức tạp, khó dự đoán nhưng bên cạnh những thách thức là thời cơ, vận hội để Việt Nam tăng tốc, phát triển bứt phá.

Trước hết, cần nhấn mạnh quá trình toàn cầu hóa dù gặp nhiều trở ngại nhưng xu thế chính của thế giới hiện nay là hòa bình, hợp tác, hội nhập và phát triển. Đặc biệt, với sự phát triển rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các lĩnh vực công nghệ số, công nghệ thông tin, chuyển đổi số dẫn đến sự phát triển của Internet vạn vật (IoT), Robot tự động hóa, Trí tuệ nhân tạo (AL), Dữ liệu lớn (Big Data),… thúc đẩy sự phát triển mang tính cách mạng về lực lượng sản xuất, hình thành lực lượng sản xuất mới, làm thay đổi quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất nói chung. Đây là thời cơ để tăng tốc phát triển cho các nước đang phát triển như Việt Nam. Nếu chúng ta không bắt nhịp được bước chuyển động của thời đại, sẽ không thể phát triển và bị tụt hậu xa hơn. Nhưng khi đã chuẩn bị các tiền đề, điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, Việt Nam sẽ có cơ hội lớn để đi tắt đón đầu, đi thẳng vào trong lõi của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, từ đó bắt nhịp một cách chủ động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo sự bứt phá cho sự phát triển đất nước. Trên đây chính là tiền đề, điều kiện và nền tảng quan trọng để chúng ta tự tin vững bước vào kỷ nguyên phát triển mới.  

Những thách thức đặt ra với Việt Nam khi bước vào kỷ nguyên mới là gì? Ngay khi xác định được những thách thức này, vai trò của Đảng trong việc ban hành các quyết sách để sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới là gì, thưa ông?  

Chúng ta còn thời gian rất ngắn để hoàn thiện những tiền đề, điều kiện để bước vào kỷ nguyên mới - được xác định bắt đầu từ Đại hội lần thứ XIV của Đảng, như Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh.  

Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, thời cơ đem lại để Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới thì vẫn có những thách thức lớn.

Thứ nhất, những yếu kém, hạn chế của nền kinh tế nói riêng cũng như các vấn đề kinh tế - xã hội đã tích tụ nhiều năm chưa được giải quyết, tạo ra rào cản rất lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã nêu ra tại Đại hội VII trước đây vẫn còn tồn tại và có mặt gay gắt hơn, đặc biệt là nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển chưa từng có tiền lệ.

Thứ hai, trong kỷ nguyên của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này nếu không bắt kịp được với dòng chảy của sự phát triển của lực lượng sản xuất mới, rất dễ dẫn đến nguy cơ tụt hậu về kinh tế và thậm chí bị gạt ra bên lề của sự phát triển của thế giới.

Thứ ba là những nguy cơ về tham nhũng, tiêu cực, lãng phí. Mặc dù Việt Nam đã tích cực tiến hành cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và đạt được những thành tựu rất quan trọng, từng bước làm trong sạch bộ máy của hệ thống chính trị nhưng trong quá trình phát triển, vấn đề này vẫn được đặt ra một cách cực kỳ gay gắt và là thách thức rất lớn trong cuộc chiến này.  

Thứ tư là nguy cơ về diễn biến hòa bình. Các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ âm mưu thủ đoạn để diễn biến các trên các lĩnh vực, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.  

Bên cạnh những nguy cơ trên, còn xuất hiện những nguy cơ mới. Đó là nguy cơ tự diễn biến, tự chuyển hoá trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tự bên trong nội bộ có một bộ phận cán bộ, đảng viên do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, dẫn đến tự diễn biến, tự chuyển hóa; có tư tưởng không kiên định, không trung thành mục tiêu lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ đó, họ có tư tưởng sai lầm, lệch lạc, tới mức trở thành phần tử chống đối chế độ và sự nghiệp đổi mới của Đảng, của nhân dân.  

Một nguy cơ khác rất hiện hữu là mắc bẫy thu nhập trung bình. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển có thu nhập trung bình. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng xác định, về tầm nhìn và định hướng phát triển, đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Đây là thách thức lớn đòi hỏi chúng ta cần phải có sự bứt phá mới có thể đạt được. Bên cạnh đó còn có những nguy cơ khác như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, già hóa dân số,… khiến chúng ta chưa kịp giàu thì đã già.  

Xác định rõ những nguy cơ và thách thức khi bước vào kỷ nguyên mới, trong thời gian gần đây Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những quyết sách đúng đắn và sáng suốt để kịp thời nhận diện, đưa ra các giải pháp. Chẳng hạn, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52 về việc sẵn sàng tham gia cuộc cách mạng lần thứ 4, tạo tiền đề cho công cuộc chuyển đổi số, hình thành lực lượng sản xuất mới; Trung ương đã ban hành Nghị quyết về đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong bối cảnh mới; Trung ương đã tổng kết Nghị quyết 18 và đang thực hiện quyết liệt việc tinh gọn tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả của hệ thống chính trị. Đây được xem là cuộc cách mạng có thể mở ra bước đột phá trong việc kiện toàn hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, cũng như tác động tích cực đến phòng chống lãng phí - vấn đề rất lớn đang diễn ra hiện nay; Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia…

Những quyết sách trên đã kịp thời tạo ra những điều kiện cần thiết để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên phát triển mới. Năm 2025, Việt Nam kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, đây cũng được xem là một dấu mốc để Việt Nam chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới.

Chú thích ảnh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh kỷ niệm Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Ảnh: Văn Điệp/TTXVN

Trách nhiệm lịch sử của Đảng để đưa Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới như thế nào, thưa ông?  

Ngày 3/2/2025, Đảng Cộng sản Việt Nam tròn 95 tuổi. Có thể khẳng định, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng đã thực hiện rất tốt sứ mệnh lịch sử của mình. Đó là lãnh đạo nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước năm 1945; thực hiện thắng lợi 02 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước, đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.

 40 năm qua, Đảng đã thực hiện thắng lợi sứ mệnh đưa Việt Nam thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu để vươn lên nước đang phát triển có cơ đồ, tiềm lực, vị thế uy tín đã nói ở phía trên.  

Thực tiễn lịch sử chứng minh, kể từ khi ra đời Đảng luôn là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi cách mạng của Việt Nam.  Trong kỷ nguyên mới, để tiếp tục thực hiện thắng lợi sứ mệnh vẻ vang của mình, Đảng cần tiếp tục hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới trong những quyết sách mới trên cơ sở những bài học kinh nghiệm tích lũy được từ 95 năm lãnh đạo, đặc biệt là từ 40 năm đổi mới; trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với thực tiễn phát triển đất nước và thế giới; trên cơ sở kế thừa có chọn lọc tinh hoa trí tuệ của nhân loại và truyền thống văn hoa tốt đẹp của dân tộc. Trong kỷ nguyên mới, lý luận về đường lối đổi mới của Đảng trở thành cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng cũng như là kim chỉ nam hành động cho mọi cán bộ Đảng viên và nhân dân.  

Xuất phát từ thực tiễn của đất nước và khát vọng của nhân dân, Đảng cần đề ra các chủ trương, đường lối, định hướng chính sách đúng đắn cho sự phát triển bền vững của đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều phải mang hơi thở cuộc sống và xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Mọi chủ trương chính sách của Đảng hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích quốc gia dân tộc Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Để phát huy vai trò là nhân tố hang đầu quyết định sự phát triển của đất nước thì tự bản thân Đảng phải tự xây dựng, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Muốn vậy, Đảng phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược vững vàng về bản lĩnh, trí tuệ, có phẩm chất năng lực, trí tuệ ngang tầm nhiệm vụ chiến lược của công cuộc đổi mới này. Đội ngũ này phải thật sự là bộ phận hạt nhân để vận động, tập hợp, đoàn kết toàn dân thực hiện khát vọng xây dựng đất nước giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.  

Tự chỉnh đốn Đảng để Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”; đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền cần theo phương châm không buông lỏng lãnh đạo, quản lý nhưng cũng không bao biện, làm thay; tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh hơn để tạo sự chủ động cho địa phương và phát huy được tính chủ động, sáng tạo, khơi dậy khát vọng phát triển của doanh nghiệp và người dân.

Đảng viên phải tiên phong gương mẫu đi đầu trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Trong tổ chức Đảng phải tinh gọn, cải cách hành chính, chuyển đổi số mạnh mẽ; Kiên quyết loại ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất, mắc vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và có biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hoá để Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh.

Đảng phải thật sự gắn bó mật thiết với nhân dân; lãnh đạo xây dựng thể chế để nhân dân tham gia một cách tích cực chủ động vào xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đảng cần lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính trị tiếp tục hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các nút thắt điểm nghẽn, tạo điều kiện phát huy tối đa mọi nguồn lực để tăng tốc phát triển kinh tế. Đảng phải lãnh đạo bảo đảm quyền, lợi chính đáng của nhân dân, tạo khuôn khổ pháp lý, môi trường, điều kiện thuận lợi để nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của bản thân, gia đình và giúp đỡ quê hương, đất nước.

Đảng lãnh đạo xây dựng lực lượng vũ trang thực sự trung thành với Đảng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, có khả năng tác chiến trong mọi hoàn cảnh để trở thành thanh bảo kiếm của Đảng, của chế độ, của nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước.  

Đảng lãnh đạo công cuộc hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, tiếp thu được những tinh hoa của nhân loại và bắt nhịp được bước tiến của thời đại. Qua hội nhập quốc tế và mở rộng quan hệ đối ngoại khẳng định được vị thế của đất nước và hội nhập sâu hơn đón đầu cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ 4.

Cuối cùng, Đảng cần phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, khát vọng phát triển mỗi con người Việt Nam trong việc quyết tâm phát triển, tăng tốc bứt phá; phát huy tối đa trí tuệ, năng lực, sở trường mỗi người dân Việt Nam; xây dựng Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh và hạnh phúc.  

Trân trọng cảm ơn ông!

Link nội dung: https://doanhnghiepcuocsong.vn/dang-la-nhan-to-hang-dau-quyet-dinh-moi-thang-loi-cua-cach-mang-viet-nam-a183729.html